Đề tài Rèn và nâng cao kỹ năng thực hành thông qua bài Vẽ theo mẫu

Đề tài Rèn và nâng cao kỹ năng thực hành thông qua bài Vẽ theo mẫu

Như chúng ta đã biết, xã hội ngày càng phát triển thì yêu cầu của xã hội đối với nguồn nhân lực ngày càng cao, để đáp ứng được nhu cầu đó của xã hội, những năm gần đây Đảng và Nhà nước đã có rất nhiều những quyết sách, đầu tư thích đáng cho giáo dục, điều đó được thể hiện ở nhiều khía cạnh khác nhau nhưng mang tính vĩ mô và cụ thể nhất đó là đã ban hành luật giáo dục (Ban hành 2005). Trước hết, nói về mục tiêu giáo dục, theo chương I điều 2: “Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp . Hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Như vậy, ngay từ phần đầu của bộ luật ta đã thấy sự quan tâm đến giáo dục, nâng vị thế của giáo dục lên một tầm cao mới, coi đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển, đầu tư chiều sâu. Còn nguyên lý của giáo dục là “Học đi đôi với hành, Giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, lý luận gắn liền với thực tiễn, giáo dục nhà trường kết hợp với gia đình và xã hội”.

doc 6 trang Người đăng levilevi Lượt xem 893Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem tài liệu "Đề tài Rèn và nâng cao kỹ năng thực hành thông qua bài Vẽ theo mẫu", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Rèn và nâng cao kỹ năng thực hành thông qua bài Vẽ theo mẫu
- 
Đăng ngày: 24/01/2008- Lượt đọc: 55 
PHẦN I 
NHẬN THỨC VẤN ĐỀ: 
Như chúng ta đã biết, xã hội ngày càng phát triển thì yêu cầu của xã hội đối với nguồn nhân lực ngày càng cao, để đáp ứng được nhu cầu đó của xã hội, những năm gần đây Đảng và Nhà nước đã có rất nhiều những quyết sách, đầu tư thích đáng cho giáo dục, điều đó được thể hiện ở nhiều khía cạnh khác nhau nhưng mang tính vĩ mô và cụ thể nhất đó là đã ban hành luật giáo dục (Ban hành 2005). Trước hết, nói về mục tiêu giáo dục, theo chương I điều 2: “Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp . Hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Như vậy, ngay từ phần đầu của bộ luật ta đã thấy sự quan tâm đến giáo dục, nâng vị thế của giáo dục lên một tầm cao mới, coi đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển, đầu tư chiều sâu. Còn nguyên lý của giáo dục là “Học đi đôi với hành, Giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, lý luận gắn liền với thực tiễn, giáo dục nhà trường kết hợp với gia đình và xã hội”. “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; Phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, từng môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm; rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”. Tất cả những vấn đề trên đây đã được luật giáo dục đề cập đến một cách ngắn gọn, rõ ràng và dễ hiểu, mục tiêu của giáo dục đề cập đến đào tạo con người phải có thẩm mỹ, nguyên lý giáo dục thì nói học phải đi đôi với hành, lý luận phải gắn liền với thực tiễn. Môn mỹ thuật trong trường phổ thông cũng không nằm ngoài mục tiêu và nguyên lý giáo dục đã đề ra, việc thông qua phân môn vẽ theo mẫu nhằm rèn và nâng cao kỹ năng thực hành cho học sinh là mục đích chính khi xây dựng chương trình mỹ thuật đặc biệt là trong chương trình đổi mới sách giáo khoa ở bậc THCS, việc thực hành trong môn mỹ thuật là một việc không thể thiếu, nó tuân thủ theo một nguyên tắc vòng tròn lôgíc nhất định: Quan sát - So sánh - Thực hành (vẽ) - Đánh giá (nhận xét) - Quan sát ... và cứ như vậy cho đến khi nhận thức về thẩm mỹ được phát triển đến trình độ nhất định. Chính việc thực hành trong môn MT quan trọng đến như vậy nên tôi đã chọn đề tài “Rèn và nâng cao kỹ năng thực hành thông qua bài VTM”. 
PHẦN II: 
LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 
 Nếu như người ta coi sự phát triển của mỹ thuật như một cây đại thụ thì những công trình điêu khắc, kiến trúc sẽ là những bông hoa thơm và quả ngọt, những tác phẩm hội hoạ sẽ là những tán lá rộng xum xuê, trang trí và ấn loát sẽ là cành còn cái thân to và bộ rễ chắc khoẻ sẽ là HÌNH HOẠ. 
Thật vậy, những tác phẩm hội hoạ đầu tiên trong buổi bình minh của loài người là những tác phẩm còn mang nặng dấu ấn của hình hoạ, đó là những hình vẽ con vật, những hình người với cách vẽ nét viền chu vi, những mảng đen đậm đặc toàn hình, trong lao động săn bắn và hái lượm, người nguyên thuỷ đã biết chế ra những công cụ thô sơ như rìu đá, búa đá để sử dụng. Từ đó, trong quá trình lao động và đấu tranh với thiên nhiên nghiệt ngã để bảo tồn và phát triển, con người đã vạch khắc lên công cụ, lên vách đá những hình muông thú quen thuộc, những động tác săn bắn, những cảnh sinh hoạt, múa hát để ghi nhớ, đó cũng chính là những tín hiệu để thông báo cho nhau, dù chỉ là những đường viền, hay mảng màu đen đặc thì ta vẫn thấy sự nắm bắt hiện thực của người nguyên thuỷ vẫn hết sức chính xác và sinh động, Dù bằng cách nào đi chăng nữa, đơn giản hay tinh tế, vụng về hay trau chuốt thì chất hiện thực vẫn là những phẩm chất đầu tiên của bức vẽ. Vậy hình hoạ là gì mà nó quan trọng như vậy, quan trọng đến mức bất cứ ai khi học vẽ cũng phải bắt đầu từ đó. Theo cuốn Hình họa và điêu khắc của nhà xuất bản giáo dục thì: “Hình hoạ là phương pháp dựng hình vẽ để mô tả đối tượng khách quan có thực mà mắt ta quan sát được bằng đường nét, mảng, hình khối, sáng tối để tạo ra không gian. Không gian trong hình hoạ có thể là một màu hoặc nhiều màu”. 
Có nhiều cách gọi khác nhau về hình hoạ, song tựu chung lại có những cách gọi chính là: Vẽ hình hoạ, vẽ tả thực, vẽ tả sống, vẽ theo mẫu. Trong trường phổ thông thì gọi là vẽ tả thực, vẽ tả sống, vẽ theo mẫu, còn trong trường chuyên nghiệp thì gọi là vẽ hình hoạ. Về cơ bản thì các cách gọi trên không khác nhau nhưng trên thực tế các giáo viên không chuyên thường hay hiểu nhầm là vẽ tả thực, vẽ tả sống phải vẽ như thực về cả kích thước, đậm nhạt, màu sắc mà không quan tâm đến vị trí xa, gần, cao, thấp, nghiêng hay chính diện, hơn nữa còn bỏ qua cách nhìn, cách nghĩ, cách cảm thụ của người vẽ, nhất nhất yêu cầu “mười người như một” phải vẽ giống nhau như đúc một khuôn. Vì thế, để hiểu đúng kháI niệm về phân môn này, năm 1980 Hội đồng bộ môn MT đã nhất trí dùng thuật ngữ Vẽ theo mẫu để dùng trong trường phổ thông . 
Vẽ theo mẫu được hiểu như sau: VTM là tả lại, mô phỏng lại mẫu có thực bằng cách nhìn, cách nghĩ và cách cảm thụ của người vẽ. Rõ ràng ở đây không có sự rập khuôn, bắt tất cả vẽ như nhau mà vẽ theo cách nhìn, cách nghĩ và cách cảm thụ của người vẽ, vì vậy bài VTM của cả lớp sẽ không giống hệt nhau , mà có thể chỉ giống nhau trên những nét lớn, những đặc điểm chính về hình dáng chung còn kích thước, đậm nhạt, bố cục sẽ khác nhau theo khả năng phân tích của học sinh, cuối cùng khi nhìn tổng thể ta sẽ thấycó bài đẹp, bài chưa đẹp, bài đạt bài chưa đạt yêu cầu. 
Trong trường phổ thông, vẽ theo mẫu gồm những nội dung cơ bản sau đây: 
*/ Lý thuyết chung: Những bài này chỉ giới thiệu một lần, sau đó vận dụng vào suốt quá trình học. Quá trình vận dụng sẽ củng cố bổ sung dần, tạo điều kiện cho phần thực hành vững vàng và phong phú. Đó là những bài: Luật xa gần, Phương pháp vẽ theo mẫu, vẽ mầu; vẽ tập hợp đồ vật; vẽtĩnh vật; vẽ người; ký hoạ 
*/ Bài tập thực hành gồm có: Vẽ mẫu đơn, mẫu ghép, vẽ tĩnh vật chì, tĩnh vật mầu, xé dán, tranh phong cảnh, vẽ chân dung, vẽ tượng, ký hoạ người và vật những kiến thức trên được nâng cao dần theo kiến trúc đồng tâm, yêu cầu từ dễ đến khó- đơn vị kiến thức được lặp đi lặp lại nhiều lần nhưng có bổ sung nâng cao dần từ lớp dưới lên lớp trên. 
VD: ở lớp 6 chỉ vẽ đồ vật có khối đơn giản nhằm chỉ để học sinh nắm bắt được cách nhìn hình và đặt bố cục trong trang giấy cho hợp lý, nhưng đến lớp 7, yêu cầu phải đạt là hình và đậm nhạt phải gần sát với mẫu, lớp 8 ngoài yêu cầu về hình, bố cục còn phải diễn tả được độ đậm nhạt của màu và đến lớp 9 ngoài những yêu cầu trên còn phải diễn tả được không gian, tương quan của mẫu và phải giống mẫu (bài 2,3) . 
Đây cũng là vấn đề khó mà người giáo viên cần phải truyền đạt được đến học sinh và ngược lại học sinh muốn thực hiện được các yêu cầu trên thì phải thực hành thật nhiều, nhưng điều này thì còn nhiều hạn chế từ phía học sinh. 
Cụ thể là ở trường tôi, mỗi khi đến bài thực hành VTM, ngoài sự chuẩn bị của giáo viên là một số dồ dùng gần giống mẫu SGK thì hầu như các em không có sự chuẩn bị với lý do rất đơn giản là các em chưa quan tâm đúng mức hoặc một lý do khác không kém phần quan trọng là không có kinh phí để mua sắm, ngay từ những dụng cụ đơn giản như bộ bút chì sáp chứ chưa nói đến mầu bột, mầu nước hay sơn dầu. Quả thực để các em thực hành được tốt trong giờ MT thật là một điều khó, còn vấn đề khác như sự quan tâm của các bậc phụ huynh, bản thân các em chưa ham thích, áp lực của các môn học khác còn đè nặng, thời gian học tập còn hạn chế vì các em phải phụ giúp gia đình, trong khi các em đang ở lứa tuổi ham chơi có một lý do không thể không nhắc tới đó là bộ đồ dùng của phòng thí nghiệm còn thiếu và yếu một cách trầm trọng: Cụ thể là ở cả 3 khối lớp 6,7,8 đồ dùng và tài liệu chưa thiết thực, hoặc không đủ chất lượng, ở lớp 9 thì chưa trang bị, tài liệu tham khảo thì không phải lúc nào cũng có thể tìm được vì lý do thời gian, lý do công việc, lý do kinh tế, lý do gia đìnhĐó là những lý do trước mắt làm ảnh hưởng xấu đến chất lượng giờ dạy, nhưng nhiệm vụ năm học, nhiệm vụ bộ môn thì vẫn phải hoàn thành , điều đó đã thôi thúc tôi tập trung nghiên cứu các bài trong chương trình để tìm ra phương pháp nhằm nâng cao chất lượng soạn giảng, chất lượng học tập của học sinh, giúp các em định hình được phương pháp học tập , các kỹ năng cơ bản trong yêu cầu của chương trình. Trong quá trình nghiên cứu tôi nhận thấy, chương trình MT nói chung và phân môn VTM nói riêng đều có kiến thức nâng dần từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ lý thuyết đến thực tiễn. Việc tạo đà cho các em có sức bật trong môn này đòi hỏi việc soạn giảng phải có đầu tư cả về thời gian và sự nhiệt tình của giáo viên, đặc biệt trong hệ thống câu hỏi của bài soạn, phải dẫn dắt học sinh một cách tự nhiên, không gò ép, thúc dẩy học sinh tìm tòi suy nghĩ qua từng bài, từng phần, từng chi tiết để các em nhận thức theo cách nghĩ của mình. 
Để rèn được kỹ năng thực hành cho học sinh, theo tôi việc đầu tiên người giáo viên phải phân biệt được thực hành của môn học này là như thế nào? Rõ ràng không thể cầm tay mà vẽ cho từng em được hoặc chỉ ra là em phải vẽ thế này, em phải vẽ thế kia, như vậy lại là áp đặt và sự áp đặt đó sẽ kìm hãm sự phát triển tư duy của học sinh, tạo cho các em có thói quen lệ thuộc. Vậy phải làm thế nào?. Ta có thể thực hiện ba phương pháp: 
- Thực hành thông qua quan sát (bằng hệ thống câu hỏi) ; 
- Thực hành thông qua kỹ năng vẽ (giáo viên vẽ lên bảng một số cách, ví dụ: dựng hình, xác định đậm nhạt, cách gạch bóng với một số bề mặt, chất liệu) 
- Thực hành thông qua hệ thống bài tập ở lớp và giao nhiều bài tập cho các em thực hành ở nhà. 
Trước hết, nói về thực hành bằng hệ thống câu hỏi, Giáo viên có thể đưa ra một số câu hỏi như sau: 
VD: Trong bài luật xa gần ở lớp 6: GV có thể hỏi khi đưa ra một số mẫu đã chuẩn bị, ví dụ cái bát. 
- Theo em khi nhìn chính diện thì miệng bát hình gì? 
- Học sinh trả lời – Hình tròn 
- Nhưng tại sao khi thầy (cô) nghiêng bát đi, miệng bát lại là hình bầu dục (elíp)? 
- Học sinh sẽ suy nghĩ và trả lời theo ý của mình. 
Hoặc giáo viên đưa ra hình ảnh về nhà ga xe lửa hoặc hàng cột điện: 
- Giáo viên hỏi: Tại sao những cột điện có cùng kích thước mà sao càng nhìn xa chúng càng nhỏ và mờ dần? 
- Học sinh suy nghĩtrả lời theo ý hiểu của mình. 
Qua những câu hỏi trên, học sinh sẽ ham thích quan sát cảnh vật xung quanh. đây chính là kỹ năng thực hành quan sát, nhìn nhận để nhận xé ... ng thiên nhiên có đường nét giữa các vật không? 
- Có học sinh trả lời là có, có học sinh trả lời là không. 
- Giáo viên nhận xét và phân tích: Trong thiên nhiên không có đường nét, sở dĩ ta tin rằng nhìn thấy đường nét chẳng qua đó chính là giới hạn của các hình thể hay là sự phân cách giữa hai bề mặt trong không gian mà thôi. 
- Nếu là đối tượng học sinh khá, các em sẽ nhận ra ngay vấn đề là khi vẽ không nhất thiết phải vẽ chu vi của vật, mà chỉ cần diễn tả được không gian mà khối đó nằm trong thì hình dáng cảu mẫu đã được xác định rồi. 
Đối với đối tượng học sinh nhận thức còn trung bình và hạn chế, giáo viên nên hỏi: 
- Theo em Tô màu và vẽ màu khác nhau ở điểm nào? 
- Học sinh suy nghĩ và trả lời. 
- Giáo viên kết luận: Tô màu là tô theo hình vẽ đã cho trước, vẽ màu là theo cảm nhận và ngẫu hứng, vậy nên chúng khác nhau về tiến trình cũng như cách làm, điều đó làm cho bài vẽ sẽ rất khác nhau. 
Giáo viên có thể hỏi: 
- Trong lớp học của chúng ta, các em thử hình dung nếu như cái bảng chỉ còn bé bằng một nửa hoặc to chiếm hết cả bức tường trước mặt thì có hợp lý không? 
- Học sinh suy nghĩ và trả lời: Không hợp lý. 
- Giáo viên: Vậy nên đặt hình vẽ cuả mình vào trang giấy như thế nào là hợp lý? 
- Học sinh sẽ đưa ra nhiều ý kiến. 
- Sau đó Giáo viên treo bảng phụ các hình vẽ đã chuẩn bị về các dạng bố cục: Quá to, quá nhỏ, lệch trên, lệch dưới, hoặc ngang, hoặc dọc 
Học sinh sẽ nhận thức được làm thế nào để bố cục bài vẽ có bố cục đẹp, hợp lý. 
Như vậy qua cách hỏi của từng bài có thể rèn cho các em kỹ năng thực hành quan sát, tự hỏi, tự trả lời, đó chính là kỹ năng mở đầu cho người học môn mỹ thuật. 
Vậy là từ cách nhìn nhận, đánh giá sự vật đến kỹ năng thể hiện của bàI vẽ đã được hình thành và vận dụng ngay từ trong những bài vẽ theo mẫu. 
Phương pháp tiếp theo là thực hành thông qua các bài vẽ, đây là phần thực hành mà bất cứ bài nào trong môn mỹ thuật cũng dùng tới cụ thể là: 
Trong chương trình vẽ theo mẫu của hai khối lớp 7,8 còn có những bài về tỷ lệ khuôn mặt người, vẽ chân dung bạn, vẽ dáng người, ký hoạ dáng người. Đây là những bài mang ý nghĩa thực hành cao, ngoài những vấn đề mang tính chất công thức, các em còn phải vận dụng chúng vào thực tiễn, làm sao phải diễn tả được cái có thực đang hiển hiện ngay trước mắt, kỹ năng thực hành ở đây không chỉ mang tính đơn thuần là chỉ có vẽ đúng theo tỷ lệ là được mà chúng còn thể hiện ở chỗ: bất cứ khi nào đặt bút để vẽ một nét thì lại phải suy nghĩ xem nên bắt đầu từ đâu? khi nào thì dừng lại, khi nào thì nhấn bút mạnh để tạo nét đậm, khi nào nhấn nhẹ để tạo nét nhạt? và nếu như vẽ sai hoặc thừa nét có nên tẩy ngay không hay cứ để nguyên đến cuối bài mới chỉnh sửa, lúc này giáo viên cần động viên các em là không nên vội sửa, mà cứ để nét thừa đó để so sánh và chọn ra cái đúng, gần hoàn thiện hình ta mới nên sửa cho chuẩn hình, đây là phương pháp thử và sửa - phương pháp luôn được các hoạ sỹ hay dùng, qua nhiều lần sửa sai như vậy ta rút ra kinh nghiệm cho những nét vẽ sau, những bài sau . 
Ví dụ: bài giới thiệu tỷ lệ khuôn mặt người, đây là một bài khó, thực ra khuôn mặt thì ta thường xuyên nhìn thấy nhưng khi yêu cầu vẽ khuôn mặt cho đúng thì quả thực là khó, đối với một bài mang tính công thức như vậy, ngoài kiến thức trong SGK cần truyền đạt, giáo viên nên mở rộng thêm là khi vẽ gương mặt không nên vẽ tất cả các nét đều nhau vì: Các em đã học luật xa gần, các em đã biết những vật ở xa thì nhỏ và mờ hơn vật ở gần, vậy trên khuôn mặt các em thấy cái gì ở phía trước, cái gì ở phía sau? Nếu ở phía trước nên vẽ đầy đủ chi tiết và rõ ràng hơn, và ngược lại ở sau thì mờ, nhoè và nhạt hơn, như vậy khi nhìn vào bài ta sẽ thấy bài vẽ có không gian và có tình cảm hơn là ta vẽ tất cả các nét đều bằng nhau, tất cả những nét các em vẽ hang hãy đừng vội tẩy xoá, làm như vậy sẽ không có hiệu quả, thậm chí còn làm hỏng bài. 
Trong bài xé dán lọ hoa và quả (lớp 8), đây là bài thường các em rất hứng thú khi thực hành vì hiệu quả của bài được thể hiện ngay sau khi các em có những mảnh dán đầu tiên, mầu sắc cũng rất nhiều nếu như các em chuẩn bị kỹ, các em được thực hành ngay và hình cũng dễ thay, dễ sửa. Trong bài này kỹ năng thực hành rất nhiều, nếu để các em tự làm, tự suy nghĩ chắc chắn bài rất đơn điệu, vì vậy cần giúp các em một số kỹ năng cơ bản như kỹ thuật xé dán, tìm và chọn màu, Ví dụ cách xé dán: giáo viên có thể dùng một tờ giấy và xé theo nhiều cách như xé bấm, xé tự do, xé theo hình vẽ ở mỗi cách xé sẽ tạo ra một hiệu quả khác nhau, khi dán ta sẽ thấy có những viền mép trắng phân chia giữa các mảnh xé vì vậy bài xé dán sẽ không khô cứng như là cắt dán, tiếp theo giáo viên có thể dùng giấy màu để tạo nền như: Có thể vò nhàu mảnh giấy sau đó vuốt nhẹ ra và cho các em so sánh với mảnh giấy chưa vò nhàu, các em sẽ thấy sự khác biệt rất lớn giữa hai mảnh giấy, tờ giấy bị nhàu sẽ có không gian do bị va đập ánh sáng làm chỗ sáng chỗ tối, nếu đặt vào làm nền sẽ có hiệu quả khác bình thường ( khuyên các em không nên chỗ nào cũng vò nhàu vì chỗ nào cũng vậy sẽ tạo cảm giác cẩu thả trong bài xé dán) 
Kỹ năng thực hành đặc biệt còn được thể hiện ở chương trình lớp 9 qua một số bài vẽ theo mẫu lọ hoa và quả (bài 2,3). Bài này các em đã được thực hành nhiều lần ở lớp trước, nhưng ngoài yêu cầu cần về đường nét, hành dáng, bố cục đơn thuần, còn phải có một yêu cầu hết sức cao đó là: Giống mẫu, đây là một yêu cầu khó, ít học sinh có thể đạt được, đến bài này giáo viên nên nâng cao cho các em kỹ năng nhận biết cách xác định gạch bóng để tạo chất liệu, ví dụ chất thạch cao cần làm như thế nào? chất thuỷ tinh? . Vậy muốn giống mẫu các em phải chú ý đến cả chất liệu của chúng nữa. 
Kỹ năng thực hành tiếp theo đó là giao bài tập cho các em làm tại nhà: 
Trong chương trình lớp 9 còn một bài vẽ khó đó là vẽ tượng chân dung thạch cao, đây là một bài nằm trong chương trình của học sinh chuyên nghiệp, mặc dù yêu cầu của bài này không thật cao nhưng các em rất khó thể hiện, khó không phải vì không làm được, mà khó vì thời lượng của bài chỉ có 90 phút, việc giới thiệu mẫu và ôn lại tỷ lệ cơ bản của mặt người đã chiếm rất nhiều thời gian, vậy thực hành là không đủ, trong khi đó các em lại không có mẫu và không được vẽ ở nhà khi không có mẫu, vậy là yêu cầu của bài khó được thực hiện, nhưng cũng không phải không có cách, bài này giáo viên có thể cho các em thực hành bằng cách: Cho các em làm bài tập phóng tranh chân dung, ký hoạ người thân (đây là bài các em đã học từ lớp trước) từ đó các em sẽ thuộc tỷ lệ cơ bản của mặt người vậy các em sẽ đỡ bỡ ngỡ khi vẽ tượng và giáo viên cũng không mất thời gian cho việc ôn lại tỷ lệ nữa. 
Ngoài ra ở các bài khác, nên giao cho các em nhiều bài tập để các em không bị động trong các kỹ năng khi hoạt động thực hành ở lớp. 
Như vậy, hệ thống lại toàn bộ chương trình vẽ theo mẫu ở các khối lớp ta thấy, kiến thức đi từ lý thuyết đến thực tiễn, từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp. Sau khi hàon thành chương trình, các em sẽ nhận thức được vẻ đẹp của thiên nhiên, của con người và những sản phẩm do con người tạo ra, giáo dục cho các em tình yêu lao động, tính kiên trì, óc tư duy sáng tạo không mệt mỏi. 
Tóm lại: Để rèn và nâng cao kỹ năng thực hành của học sinh qua bài dạy vẽ theo mẫu đòi hỏi giáo viên phải vất vả hơn nữa trong việc thiết kế và điều hành giờ học, bản thân giáo viên cũng phải chủ động, sáng tạo thì mới khơi dậy trong các em sự hoạt động tích cực, sáng tạo với một số việc cụ thể như sau: 
- Hướng dẫn học sinh quan sát và nhận xét mẫu một cách cụ thể, tránh trường hợp quan sát chưa kỹ đã cho học sinh vẽ. 
- Động viện, khuyến khích học sinh tự tìm ra phương pháp nhìn nhận, phương pháp vẽ riêng cho mình, tôn trọng ý kiến của các em, tránh không tạo cảm giác các em bị áp đặt. 
- Hướng dẫn tỷ mỷ khi cho các em học ngoài trời. 
- Chuẩn bị mẫu vẽ, tư liệu đầy đủ, đa dạng, phong phú hết khả năng cho phép. 
PHẦN III: 
ĐÚC RÚT KINH NGHIỆM 
Qua những năm giảng dạy ở địa phương, tôi nhận thấy: 
1. Giáo viên phải nắm vững nội dung bài giảng, chuẩn bị tư liệu đầy đủ, phong phú trước khi đến lớp. 
2. Phải có kỹ năng sư phạm. 
3. Luôn lắng nghe ý kiến phản hồi từ phía học sinh. Tôn trọng sự tự chủ của các em. Khuyến khích, động viên các em khi các em có tiến bộ và những thành công nhất định. 
4. Liên tục giao bài tập như ký hoạ cỏ cây, thiên nhiên, cảnh vật, con người và liên tục phải kiểm tra vở thực hành của các em. Đây là phương pháp luyện tập hữu ích nhất mà các em nên làm. 
5. Động viên các em tích cực tham gia các cuộc thi vẽ tranh do các ban ngành, đoàn thể tổ chức, coi đó là dịp các em được thể hiện khả năng của mình. 
Kết luận – Khuyến nghị: 
Qua thực tế giảng dạy, tôi thấy một số vấn đề chưa thực sự được như mong muốn, nhất là trong vấn đề thực hành của học sinh. Trong nguyên lý mà bộ luật giáo dục đề ra là: Học đi đôi với hành, lý luận gắn liền với thực tiễn, nhưng hành như thế nào? điều kiện của hành phải được đáp ứng như thế nào? điều đó cần phải có sự quan tâm hết sức sát sao của các cấp lãnh đạo, các ban ngành đoàn thể, các bậc phụ huynh và chính bản thân các em học sinh nữa, qua đề tài này tôi mạnh dạn đề đạt một số vấn đề tôi cho là cần thiết để việc thực hành của các em thực sự có hiệu quả: 
- Đối với các cấp chính quyền, các ban ngành đoàn thể nên quan tâm nhiều hơn nữa cả về vật chất và tinh thần để nhanh chóng tiến tới không chỉ những nơi trung tâm, những trường chuyên, trường chuẩn mới có phòng học riêng cho môn âm nhạc và mĩ thuật, thiết bị của môn học nên đưa về đầy đủ, kịp thời, có chất lượng, bám sát chương trình đẫ biên soạn. 
- Đối với chương trình học môn mĩ thuật nói chung và môn vẽ theo mẫu nói riêng, nên chăng lược bỏ bớt một số tiết vẽ lọ hoa và quả ở lớp 7,8; thay vào đó cho các em làm quen dần với tượng chân dung bằng cách đưa vào một số bài vẽ chi tiết mắt, mũi, tai. để đến bài vẽ tượng ở lớp 9 các em đỡ bỡ ngỡ. 
- Đối với ban giám hiệu các trường và các giáo viên chủ nhiệm nên quan tâm và tìm cách phân tích cho các bậc phụ huynh hiểu rõ mục tiêu và lợi ích của việc giáo dục thẩm mỹ mà trong luật giáo dục đã đề ra. 
Trên đây là một số nhận thức và kinh nghiệm của bản thân qua những năm giảng dạy mĩ thuật ở địa phương và đặc biệt là trong chương trình đổi mới sách giáo khoa mà bộ giáo dục đã ban hành. Rất mong sự đóng góp ý kiến của các vị lãnh đạo, các bạn đồng nghiệp để đề tài của cá nhân tôi trở lên hoàn thiện và có thể được ứng dụng trong thực tế cho những năm học tiếp theo, tôi xin chân thành cảm ơn. 
Đức Chính, ngày 20/5/2007 
 Người viết 
 Hồ Ngọc Dũng 

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn my thuat.doc