Nâng cao chất lượng giảng dạy môn Ngữ văn là mối quan tâm của các giáo viên, các nhà quản lý giáo dục và xã hội. Khác với nhiều môn học, quan hệ giữa giáo dục đạo đức và giáo dục kiến thức trong môn Ngữ văn rất khăng khít, nó ảnh hưởng, tác động qua lại rất chặt chẽ. Dạy Văn không chỉ là chuyện dạy văn chương, chữ nghĩa đơn thuần mà còn là vấn đề chính trị xã hội trước mắt cũng như lâu dài. Dạy Văn là dạy người. Nâng cao chất lượng và hiệu quả dạy Văn sẽ góp phần quan trọng vào việc giáo dục đạo đức, tư tưởng cho học sinh (HS).
PHÒNG GD&ĐT THÁP MƯỜI CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TRƯỜNG THCS HƯNG THẠNH Độc lập – Tự do – Hạnh phúc Hưng Thạnh, ngày 8 tháng 3 năm 2012 BÀI THAM LUẬN Chủ đề “Phân tích, đánh giá kết quả học kỳ I, phương hướng, biện pháp nâng cao chất lượng bộ môn trong học kỳ II Nâng cao chất lượng giảng dạy môn Ngữ văn là mối quan tâm của các giáo viên, các nhà quản lý giáo dục và xã hội. Khác với nhiều môn học, quan hệ giữa giáo dục đạo đức và giáo dục kiến thức trong môn Ngữ văn rất khăng khít, nó ảnh hưởng, tác động qua lại rất chặt chẽ. Dạy Văn không chỉ là chuyện dạy văn chương, chữ nghĩa đơn thuần mà còn là vấn đề chính trị xã hội trước mắt cũng như lâu dài. Dạy Văn là dạy người. Nâng cao chất lượng và hiệu quả dạy Văn sẽ góp phần quan trọng vào việc giáo dục đạo đức, tư tưởng cho học sinh (HS). I. Nhìn lại thực tế những năm học qua cũng như ở học kì I năm học 2011-2012 của trường THCS Hưng Thạnh, chất lượng môn Ngữ văn chưa phát huy hiệu quả, tỷ lệ học sinh khá, giỏi còn ít (so với điểm thi HK). Theo thống kê điểm thi HKI năm học 2011-2012 trong toàn huyện, chúng tôi thấy rằng số lượng HS khá, giỏi môn Ngữ văn rất thấp, còn số lượng học sinh yếu, kém chiếm tỷ lệ khá cao so với mặt bằng chung của huyện. Cụ thể như sau. Khối 6: Điểm dưới 5: Tỷ lệ: 28,0% Khối 7: Điểm dưới 5: Tỷ lệ: 43,7% Khối 8: Điểm dưới 5: Tỷ lệ: 38,9% Khối 9: Điểm dưới 5: Tỷ lệ: 35,6% Từ thực tế trên, chúng tôi rút ra được một số nguyên nhân cơ bản sau: Về phía giáo viên: Thời gian nghiên cứu sách vở, tài liệu liên quan đến chuyên môn còn hạn chế. Việc tìm hiểu và nắm vững tâm tư nguyện vọng của học sinh, đặc biệt là học sinh yếu kém, học sinh mất kiến thức cơ bản từ lớp dưới chưa được kịp thời. Không có điều kiện để mở rộng giao lưu, học hỏi kinh nghiệm dạy Ngữ văn ở các trường bạn. Việc dự giờ , thăm lớp tại trường khi góp ý và được góp ý thường do cảm tính, vì vậy không có sức khai thông, mở đường cho những ách tắc, trì trệ trong phương pháp giảng dạy Về phía học sinh Sống trong môi trường thiếu những hoạt động văn hóa, những câu lạc bộ, sân chơi văn hóa, thư viện hiếm sách tham khảo và không đáp ứng nhu cầu đa số học sinh vùng sâu, vùng xa đã thờ ơ, lạnh nhạt với những hoạt động văn học nghệ thuật, với môn Ngữ văn, HS khá, giỏi môn Ngữ văn rất hiếm. Động cơ học tập của HS thường chạy theo thị hiếu, theo nhu cầu của thị trường nên các em thường chú ý nhiều đến những môn khoa học tự nhiên, môn Ngữ văn chưa được hiểu đúng nghĩa – bộ môn nghệ thuật ngôn từ. Nhiều HS có ý nghĩ học môn Ngữ văn chỉ vì lấy điểm để thi đỗ tốt nghiệp. Vì vậy nhiều em chán ngán giờ học Ngữ văn, học chiếu lệ và trơ lì trước những hình tượng nghệ thuật giàu giá trị tư tưởng – thẩm mỹ. Do đó, giáo viên cũng không có hứng thú giảng dạy. Trình độ, khả năng của HS trong trường không đồng đều. Nhiều HS hầu như không có kỹ năng viết câu, làm đoạn, vốn từ nghèo nàn, viết sai chính tả, kiến thức lý luận văn học trống rỗng, có em “nói không nên lời” Nhiểu HS ỷ lại gia đình khá giả nên mua đủ loại sách văn mẫu, khi giáo viên cho đề làm văn bài nào thì copy nguyên xi, hoặc gán ghép, chắp vá không phân biệt đúng, sai, hợp lý; không có ý thức, trách nhiệm với bài viết của mình. Ý thức tự học ở nhà rất kém, nhiều học sinh có làm và chuẩn bị bài ở nhà nhưng chỉ để đối phó với giáo viên, khi giáo viên kiểm tra.v.v Về phí cha mẹ học sinh Trường đóng trong một địa bàn gặp khó khăn về kinh tế, đa số người dân ở đây làm thuê, làm mướn, không có ruộng đất, phần lớn học sinh đi học về phải ra đồng phụ giúp cha mẹ. Ý thức của một số người dân ở đây còn hạn chế, không hiểu hết ý nghĩa của việc học nên họ thờ ơ không quan tâm đến việc học của con em mình II. Để khắc phục những hạn chế trên, sang học II năm học 2011-2012, tổ Ngữ văn đưa ra một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng môn Ngữ văn như sau: 1. Quản lý chặt chẽ và nâng cao chất lượng giờ tự học: Do đặc thù của môn Ngữ văn ( đặc biệt là phân môn văn) nên việc chuẩn bị bài của học sinh là vô cùng quan trọng. Trong khi đó, gia đình ít quan tâm, nên rèn cho các em ý thức tự học, là vô cùng cần thiết. Để nâng cao chất lượng giờ tự học, chúng tôi đã chuẩn bị cho các em hệ thống câu hỏi cụ thể, sát với nội dung bài học, hoặc những nội dung chính sẽ kiểm tra bài cũ ở tuần sau, tiết sau Tổ chức học bài theo nhiều hình thức: cá nhân, bài theo tổ, nhóm Như vậy, học sinh sẽ cùng học và giúp đỡ lẫn nhau nhiều hơn . Giáo viên cũng có thể giao những nội dung bài học cho các nhóm thảo luận trước và lên lớp thuyết trình. Có thể giao thêm các bài tập dạng mở cho học sinh vào ngày thứ 7, chủ nhật ( viết đoạn văn bài văn trình bày cảm nhận, kể câu chuyện, suy nghĩ về một vấn đề). Cùng với việc tự học của học sinh là sự theo dỏi, hướng dẫn, giúp đỡ của giáo viên. Giáo viên có thể kiểm tra xem học sinh học gì, các em học có hiệu quả không bằng một vài câu hỏi trắc nghiệm. Bằng những phương pháp đơn giản đó mà giờ tự học ở trường đã đi vào nền nếp. Các em học sinh hình thành phương pháp học tập phù hợp, có hiệu quả. Đó cũng là một yếu tố quan trọng cho sự thành công của những giờ lên lớp. 2. Tăng cường tính tích hợp, tích cực trong giờ lên lớp. Chất lượng học tập của học sinh sẽ thể hiện qua từng giờ học cụ thể. Một giờ học thành công là giờ học mà học sinh là chủ thể sáng tạo, là nhân tố trung tâm của mọi hoạt động. Tuy nhiên, do sự thay đổi về môi trường sống, học tập; do đặc điểm tâm lý của các em còn nhút nhát, tự ti... đặc biệt là sự thay đổi về sinh lý của các em ở lứa tuổi mới lớn nên dẫn đến sự thay đổi về tâm lý đã có ảnh hưởng không nhỏ đến việc học tập của các em. Trong khi đó, tiếng Việt lại là ngôn ngữ thứ hai nên việc tiếp thu kiến thức ít nhiều gặp khó khăn, các em thường tiếp thu bài học nhanh nhưng lại quên ngay nếu không ôn luyện thường xuyên. Vì vậy , việc dạy học theo phương pháp tích hợp và tích cực là rất cần thiết đối với môn ngữ văn ở trường THCS nói chung và trường THCS Hưng Thạnh nói riêng. Thứ nhất, về phương pháp tích hợp. Đây cũng là một trong những yêu cầu của phương pháp dạy học văn theo tinh thần đổi mới. Sự tích hợp sẽ giúp học sinh khắc sâu, mở rộng kiến thức Có thể tích hợp giữa các đơn vị kiến thức trong cùng phân môn, giữa các bộ môn, giữa các kĩ năng Có nhiều cách tích hợp: kiểm tra bài cũ; giới thiệu bài mới, trong hệ thống câu hỏi tìm hiểu bài học, phần tiểu kết, tổng kết hoặc luyện tập. .. Tích hợp ngang( Văn- Tiếng Việt- Tập làm văn), dọc( các đơn vị kiến thức) Ví dụ: Khi dạy phân môn văn, giáo viên có thể tích hợp giữa các tác phẩm để hình thành cho học sinh những chủ để chính của văn học Việt Nam: hình ảnh người phụ nữ, nông dân, người lính, người lao độngNhờ đó, học sinh đã dần được trang bị những kiến thức sơ lược về lý luận văn học, các em cũng nắm được khái quát kiến thức văn học Việt Nam. Song song với dạy học tích hợp chính là phương pháp dạy học tích cực. Dạy học tích cực sẽ giúp học sinh chủ động trong việc học tập, lĩnh hội kiến thức Học sinh chỉ được xem là tích cực khi các em tham gia trực tiếp vào các hoạt động thông qua sự dẫn dắt, tổ chức của giáo viên. Các em có thể làm việc cá nhân, tổ, nhóm và trình bày trước lớp. Những HS , nhóm khác sẽ đặt câu hỏi phát vấn về vấn đề bạn vừa trình bày để đào sâu và mở rộng kiến thức . GV có thể hỏi thêm, hoặc "cứu trợ" trong trường hợp cần thiết. Cuối mỗi phần, giáo viên nhận xét, bổ sung và kết luận . ( Phương pháp này vận dụng cho giờ tiếng Việt và TLV rất có hiệu quả, học sinh hứng thú học tập, giờ học rất sôi nỗi. Đối với giờ Văn thì giáo viên cần chọn lựa tác phẩm, hướng dẫn chi tiết hơn). Ví dụ: Khi dạy bài thơ “Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác”, giáo viên chia lớp thành 4 nhóm, mỗi nhóm sẽ chuẩn bị hai câu ( N1: hai câu đề: N2: hai câu thực; N3: hai câu luận; N4: hai kết). Các nhóm thảo luận trong giờ tự học buổi tối và trình bày vào bảng phụ. Khi lên lớp các nhóm sẽ cử đại diện trình bày; các nhóm còn lại sẽ đặt câu hỏi phát vấn; giáo viên sẽ giúp đỡ hoặc có thể hỏi thêm để kiểm tra mức độ hiểu biết của học sinh, sau đó nhận xét và kết luận. Bằng cách đó, các em vừa chuẩn bị bài thuyết trình, vừa tìm tòi những câu hỏi khó, hay để phát vấn nhóm bạnCác nhóm trình bày thì phải có sự thống nhất cao . Vì thế, giờ học sôi nỗi, hào hứng; khác với cách thảo luận nhóm bình thường, nhiều em chỉ ngồi thụ động trong giờ học. 3. Phát huy tối đa, hiệu quả giờ phụ đạo: Đây là thời gian rất tốt cho giáo viên bổ sung kiến thức, rèn luyện kĩ năng cho học sinh. -Giờ phụ đạo sẽ có hiệu quả cao nếu giáo viên xây dựng một chương trình phù hợp. Phụ đạo không có nghĩa là chỉ làm những bài tập trong sách giáo khoa hoặc liên quan . Ví dụ chươg trình Ngữ văn 8 tập một, phần tập làm văn chỉ mới học tự sự, thuyết minh, nhưng giáo viên có thể cho học sinh những đề bài cảm nhận về nhân vật, tác phẩm, tư tưởng chung của nhiều tác phẩm - Giờ phụ đạo, giáo viên có thể cho học sinh đọc những tác phẩm văn học của các tác giả đang được học trong chương trình để mở rộng kiến thức cho các em. Hoặc cho các em đọc theo nhóm và thuyết minh trước lớp Ví dụ: Nhóm 1 ( Nam Cao); Nhóm 2 ( Ngô Tất Tố); Nhóm 3 (Nguyên Hồng); Nhóm 4 ( Thanh Tịnh).Các nhóm sẽ giới thiệu một tác phẩm tiểu biểu ( ngoài tác phẩm đã được tìm hiểu trong chương trình) về nội dung, nghệ thuật, tư tưởng Như vậy, cùng một lúc, cả lớp đã được biết thêm bốn tác phẩm văn học ngoài chương trình, điều đó sẽ giúp vốn kiến thức văn học của các em thêm phong phú. 4. Phối hợp tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp để rèn luyện kĩ năng và giáo dục cho học sinh: - Phối hợp với Thư viện nhà trường tổ chức cho học sinh đọc và viết lời giới thiệu sách. -Phối hơp với Đoàn TN, Đội TN tổ chức các cuộc thi theo kế hoạch năm học - Phối hợp tổ chức các cuộc thi kể chuyện theo sách , câu lạc bộ văn học, đố vui để học Như vậy, cùng một lúc, chúng tôi vừa rèn luyện kĩ năng , vừa kết hợp giáo dục đạo đức, đặc biệt là có thể phát hiện ra những học sinh có năng khiếu văn học để bồi dưỡng lâu dài. Thông qua những cuộc thi viết theo chủ để đã giúp chúng tôi biết rõ hơn về hoàn cảnh của nhiều em học sinh, đặc điểm tâm lý , tính cách của từng em Trên đây là tham luận về việc “Nâng cao chất lượng môn Ngữ văn ở trường THCS nói chung và trường THCS Hưng Thạnh nói riêng”. Kính mong nhận được ý kiến đóng góp của quý đồng nghiệp để chúng ta cùng nhau đưa chất lượng dạy học ngữ văn nói riêng, sự nghiệp giáo dục của tỉnh nhà nói chung ngày càng đi lên. Xin chân thành cảm ơn! Người thực hiện Tổ Ngữ Văn
Tài liệu đính kèm: