Câu hỏi 2: : Đồng chí hãy cho biết từ khi thành lập đến nay Công đoàn Việt Nam đã trải qua mấy kỳ Đại hội? Mục tiêu, ý nghĩa của các kỳ Đại
Từ khi thành lập đến nay, Công đoàn Việt Nam đã trải qua 10 kỳ Đại hội.
Đại hội lần thứ I Công đoàn Việt Nam đã họp từ ngày 1 đến ngày 15/1/1950 tại xã Cao Vân, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên, chiến khu Việt Bắc. Tham dự có gần 200 đại biểu của giai cấp công nhân Việt Nam. Đại hội đã bầu Đồng chí Hoàng Quốc Việt làm Chủ tịch, đồng chí Trần Danh Tuyên được bầu làm Tổng Thư ký.
Mục tiêu của Đại hội là: “Động viên công nhân viên chức cả nước, nhất là công nhân ngành Quân giới sản xuất nhiều vũ khí, khí tài phục vụ cho kháng chiến chống thực dân Pháp đến thắng lợi”.
Ý nghĩa: Sự kiện Đại hội Công đoàn Việt Nam lần thứ Nhất tháng 01/1950 đánh dấu bước trưởng thành to lớn của giai cấp công nhân và Công đoàn Việt Nam. Những văn kiện được Đại hội thông qua là sự vận dụng đúng đắn, cụ thể và sáng tạo đường lối cách mạng của Đảng vào phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân, là điều kiện thuận lợi cho giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn hoàn thành những nhiệm vụ mới của cuộc kháng chiến và mở ra một thời kỳ mới của công tác Công đoàn ở Việt Nam. Đại hội đã giải quyết những vấn đề lớn trong thống nhất nhận thức và hành động, sửa đổi Điều lệ Công đoàn, bầu cử chính thức Ban Chấp hành. Đại hội lấy việc thi đua ái quốc làm trọng tâm công tác.
Đại hội Công đoàn Việt Nam lần thứ II đã họp từ ngày 23 đến ngày 27/2/1961 tại Trường Thương nghiệp, Thủ đô Hà Nội. Tham dự có 752 đại biểu. Đồng chí Hoàng Quốc Việt được bầu làm Chủ tịch, đồng chí Trần Danh Tuyên được bầu làm Tổng Thư ký.
Mục tiêu của Đại hội là: “Động viên cán bộ, công nhân, viên chức thi đua lao động sản xuất, xây dựng CNXH ở miền Bắc, với tinh thần “Mỗi người làm việc bằng hai vì miền Nam ruột thịt” góp phần đấu tranh thống nhất nước nhà”.
Ý nghĩa: Lần đầu tiên trong lịch sử, Đại hội Công đoàn Việt Nam họp ở Thủ đô Hà Nội, trong bầu không khí hoà bình. Cũng lần đầu tiên trong lịch sử, Đại hội Công đoàn Việt Nam có các đoàn đại biểu quốc tế được mời và Chủ tịch Hồ Chí Minh đến dự. Đại hội đổi tên Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam thành Tổng Công đoàn Việt Nam. Đại hội là cuộc sinh hoạt chính trị quan trọng của giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn nhằm đưa đường lối của Đảng vào quần chúng công nhân viên chức. Những vấn đề mà Đại hội quyết định là những vấn đề quan trọng đối với sự nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân ta.
Đại hội lần thứ III Công đoàn Việt Nam đã họp từ ngày 11 đến ngày 14/2/1974 tại Hội trường Ba Đình, Thủ đô Hà Nội. Về dự có 600 đại biểu thay mặt cho hơn 1 triệu đoàn viên Công đoàn trong cả nước.
PHÒNG GIÁO DỤC HUYỆN BÌNH XUYÊN TRƯỜNG THCS HƯƠNG CANH -------------***------------- BÀI DỰ THI TÌM HIỂU CÔNG ĐOÀN VIỆT NAM Hä vµ tªn: TrÇn V¨n Qu¶ng §¬n vÞ: Trêng THCS H¬ng Canh B×nh Xuyªn – VÜnh Phóc Bµi dù thi T×m hiÓu c«ng ®oµn viÖt nam Câu hỏi 1: Đồng chí hãy cho biết, tổ chức Công đoàn Việt Nam được thành lập vào ngày, tháng, năm nào? Trả lời: Đại hội X Công đoàn Việt Nam (tháng 11 năm 1983) đã quyết định lấy ngày 28/7/1929, ngày thành lập Tổng Công hội Đỏ Bắc Kỳ làm ngày truyền thống của Công đoàn Việt Nam. Quá trình hình thành và ra đời của tổ chức Công đoàn Việt Nam gắn liền với tên tuổi và cuộc đời hoạt động của đồng chí Nguyễn Ái Quốc (Chủ tịch Hồ Chí Minh) - lãnh tụ vĩ đại của giai cấp công nhân và dân tộc Việt Nam. Những năm tháng hoạt động trong phong trào công nhân và Công đoàn Quốc tế, Bác đã nghiên cứu hình thức tổ chức Công đoàn ở các nước tư bản, thuộc địa và nửa thuộc địa. Từ đó rút ra kinh nghiệm thực tiễn, đặt cơ sở lý luận và hình thức tổ chức cho Công đoàn Việt Nam. Trong tác phẩm "Đường Kách mệnh”, Bác viết: "Tổ chức Công hội trước là để cho công nhân đi lại với nhau cho có cảm tình, hai là để nghiên cứu với nhau, ba là để sửa sang cách sinh hoạt của công nhân cho khá hơn bây giờ, bốn là để giữ gìn quyền lợi cho công nhân, năm là để giúp cho quốc dân, giúp cho thế giới". Có thể nói, trên bước đường đi tới chủ nghĩa Mác-Lênin và thành lập các tổ chức cộng sản ở Việt Nam, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã quan tâm rất sớm đến tổ chức quần chúng của giai cấp công nhân. Quá trình Người chuẩn bị về tư tưởng và tổ chức cho sự thành lập một chính Đảng vô sản cũng là quá trình Người xây dựng cơ sở lý luận và biện pháp tổ chức Công đoàn Cách mạng. Từ năm 1925 đến 1928, nhiều Công hội bí mật đã hình thành do sự hoạt động mạnh mẽ của Hội Việt Nam Thanh niên cách mạng. Đặc biệt từ năm 1928, khi Kỳ bộ Bắc Kỳ của Hội Việt Nam Thanh niên cách mạng chủ trương thực hiện "Vô sản hoá" thì phong trào đấu tranh của công nhân Việt Nam ngày càng sôi nổi, thúc đẩy sự phát triển của tổ chức công hội lên một bước mới cả về hình thức lẫn nội dung hoạt động. Năm 1929 là thời điểm phong trào công nhân và hoạt động công hội ở nước ta phát triển sôi nổi nhất, đặc biệt là ở miền Bắc. Các cuộc đấu tranh của công nhân nổ ra liên tục ở nhiều xí nghiệp, có sự phối hợp chặt chẽ và thống nhất hành động giữa các cuộc đấu tranh ở xí nghiệp này với xí nghiệp khác trong cùng một địa phương và giữa địa phương này với địa phương khác trong toàn xứ. Sự phát triển mạnh mẽ của phong trào công nhân và tổ chức công hội đòi hỏi phải có một tổ chức Mác xít, một Đảng thực sự Cách mạng của giai cấp công nhân có khả năng tập hợp, lãnh đạo công nhân đấu tranh giành độc lập tự do. Tháng 3/1929, chi bộ cộng sản đầu tiên được thành lập ở Hà Nội. Tiếp đến, ngày 17/6/1929, Đông Dương cộng sản Đảng ra đời. Đông Dương Cộng sản Đảng giao cho đồng chí Nguyễn Đức Cảnh, Uỷ viên lâm thời phụ trách công tác công vận của Đảng triệu tập Đại hội thành lập Tổng Công hội Đỏ Bắc Kỳ vào ngày 28/7/1929 tại nhà số 15, phố Hàng Nón, Hà Nội. Đại hội bầu đồng chí Nguyễn Đức Cảnh là người đứng đầu Ban Chấp hành lâm thời Tổng Công hội Đỏ Bắc Kỳ. Sự kiện thành lập Tổng Công hội đỏ miền Bắc Việt Nam là một mốc son chói lọi trong lịch sử phong trào công nhân và Công đoàn Việt Nam. Lần đầu tiên giai cấp công nhân Việt Nam có một đoàn thể Cách mạng rộng lớn, hoạt động có tôn chỉ, mục đích, phản ánh được ý chí, nguyện vọng của đông đảo công nhân lao động. Chính vì ý nghĩa đó, theo đề nghị của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Bộ chính trị TW Đảng Cộng sản Việt Nam quyết định lấy ngày 28/7/1929 là ngày truyền thống của Công đoàn Việt Nam. ---------------------------------------------------- Câu hỏi 2: : Đồng chí hãy cho biết từ khi thành lập đến nay Công đoàn Việt Nam đã trải qua mấy kỳ Đại hội? Mục tiêu, ý nghĩa của các kỳ Đại Từ khi thành lập đến nay, Công đoàn Việt Nam đã trải qua 10 kỳ Đại hội. Đại hội lần thứ I Công đoàn Việt Nam đã họp từ ngày 1 đến ngày 15/1/1950 tại xã Cao Vân, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên, chiến khu Việt Bắc. Tham dự có gần 200 đại biểu của giai cấp công nhân Việt Nam. Đại hội đã bầu Đồng chí Hoàng Quốc Việt làm Chủ tịch, đồng chí Trần Danh Tuyên được bầu làm Tổng Thư ký. Mục tiêu của Đại hội là: “Động viên công nhân viên chức cả nước, nhất là công nhân ngành Quân giới sản xuất nhiều vũ khí, khí tài phục vụ cho kháng chiến chống thực dân Pháp đến thắng lợi”. Ý nghĩa: Sự kiện Đại hội Công đoàn Việt Nam lần thứ Nhất tháng 01/1950 đánh dấu bước trưởng thành to lớn của giai cấp công nhân và Công đoàn Việt Nam. Những văn kiện được Đại hội thông qua là sự vận dụng đúng đắn, cụ thể và sáng tạo đường lối cách mạng của Đảng vào phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân, là điều kiện thuận lợi cho giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn hoàn thành những nhiệm vụ mới của cuộc kháng chiến và mở ra một thời kỳ mới của công tác Công đoàn ở Việt Nam. Đại hội đã giải quyết những vấn đề lớn trong thống nhất nhận thức và hành động, sửa đổi Điều lệ Công đoàn, bầu cử chính thức Ban Chấp hành. Đại hội lấy việc thi đua ái quốc làm trọng tâm công tác. Đại hội Công đoàn Việt Nam lần thứ II đã họp từ ngày 23 đến ngày 27/2/1961 tại Trường Thương nghiệp, Thủ đô Hà Nội. Tham dự có 752 đại biểu. Đồng chí Hoàng Quốc Việt được bầu làm Chủ tịch, đồng chí Trần Danh Tuyên được bầu làm Tổng Thư ký. Mục tiêu của Đại hội là: “Động viên cán bộ, công nhân, viên chức thi đua lao động sản xuất, xây dựng CNXH ở miền Bắc, với tinh thần “Mỗi người làm việc bằng hai vì miền Nam ruột thịt” góp phần đấu tranh thống nhất nước nhà”. Ý nghĩa: Lần đầu tiên trong lịch sử, Đại hội Công đoàn Việt Nam họp ở Thủ đô Hà Nội, trong bầu không khí hoà bình. Cũng lần đầu tiên trong lịch sử, Đại hội Công đoàn Việt Nam có các đoàn đại biểu quốc tế được mời và Chủ tịch Hồ Chí Minh đến dự. Đại hội đổi tên Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam thành Tổng Công đoàn Việt Nam. Đại hội là cuộc sinh hoạt chính trị quan trọng của giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn nhằm đưa đường lối của Đảng vào quần chúng công nhân viên chức. Những vấn đề mà Đại hội quyết định là những vấn đề quan trọng đối với sự nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân ta. Đại hội lần thứ III Công đoàn Việt Nam đã họp từ ngày 11 đến ngày 14/2/1974 tại Hội trường Ba Đình, Thủ đô Hà Nội. Về dự có 600 đại biểu thay mặt cho hơn 1 triệu đoàn viên Công đoàn trong cả nước. Đại hội bầu đồng chí Tôn Đức Thắng, Chủ tịch Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà làm Chủ tịch danh dự. Đồng chí Hoàng Quốc Việt được bầu làm Chủ tịch, đồng chí Nguyễn Đức Thuận được bầu làm Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký. Mục tiêu Đại hội là: “Động viên sức người, sức của chi viện cho chiến trường, tất cả để giải phóng miền Nam thống nhất đất nước”. Ý nghĩa: Đại hội lần thứ III Công đoàn Việt Nam được tiến hành trong lúc ở nước ta cũng như ở trên khắp năm châu đang diễn ra những chuyển biến lớn lao có lợi cho phong trào cách mạng của nhân dân các nước. Đại hội là một sự kiện trọng đại trong đời sống chính trị của đất nước. Đại hội tiêu biểu cho ý chí của hàng triệu người lao động làm chủ tập thể quyết tâm biến chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong sản xuất và chiến đấu thời kỳ chống Mỹ cưú nước thành phong trào sôi nổi thi đua lao động, sản xuất, cần kiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc; đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Đại hội Công đoàn toàn quốc lần thứ IV đã họp từ ngày 8 đến ngày 11/5/1978 tại Hội trường Ba Đình, Thủ đô Hà Nội. Về dự có 926 đại biểu thay mặt cho hơn 2 triệu đoàn viên Công đoàn thuộc 39 Liên hiệp Công đoàn địa phương, 18 Công đoàn ngành Trung ương trong cả nước. Đại hội đã bầu đồng chí Nguyễn Văn Linh ( sau này là Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng ) làm Chủ tịch, đồng chí Nguyễn Đức Thuận được bầu làm Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký. Mục tiêu Đại hội là: “Động viên giai cấp công nhân và những người lao động khác thi đua lao động, sản xuất, phát triển kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hoá trong cả nước”. Ý nghĩa: Là Đại hội phát huy quyền làm chủ tập thể và ý chí tự lực tự cường của những người lao động chân tay và lao động trí óc đang hăng say lao động, tiến công nhằm xoá bỏ nghèo nàn và lạc hậu, xây dựng Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh, có đời sống văn minh, hạnh phúc. Đại hội là hình ảnh đẹp đẽ của đội ngũ giai cấp công nhân thống nhất, của tổ chức công đoàn thống nhất, trong nước Việt Nam thống nhất, thành quả của ngót nửa thế kỷ đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân ta. Đây là sự kiện chính trị có ý nghĩa đặc biệt quan trọng mở đầu một phong trào cách mạng mới có sức lôi cuốn đông đảo công nhân viên chức và quần chúng nhân dân trên khắp mọi miền Tổ quốc hăng hái làm việc, thi đua lao động sản xuất và công tác. Đại hội lần thứ V Công đoàn Việt Nam tiến hành từ ngày 16 đến ngày 18/11/1983 tại Hội trường Ba Đình, Thủ đô Hà Nội. Về dự có 949 đại biểu thay mặt cho gần 4 triệu đoàn viên Công đoàn trong cả nước. Đại hội nhất trí lấy ngày 28/7/1929 ngày thành lập Công hội đỏ Bắc Kỳ là ngày truyền thống Công đoàn Việt Nam. Đại hội đã bầu Đồng chí Nguyễn Đức Thuận là Chủ tịch, đồng chí Phạm Thế Duyệt được bầu là Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký. Tháng 2/1987, đồng chí Phạm Thế Duyệt được bầu làm Chủ tịch, đồng chí Dương Xuân An được bầu làm Tổng Thư ký. Mục tiêu của Đại hội “Động viên công nhân lao động thực hiện 3 chương trình kinh tế lớn của Đảng. Phát triển nông nghiệp, công nghiệp thực phẩm, hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu”. Ý nghĩa: Đại hội lần thứ V Công đoàn Việt Nam diễn ra trong bối cảnh đất nước ta đang đứng trước một thời kỳ cách mạng hết sức sôi động. Đảng ta, giai cấp công nhân và nhân dân lao động đang gánh vác một sứ mệnh trọng đại, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đây là đại hội hành động của công nhân, viên chức cả nước phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, dấy lên các phong trào cách mạng rộng lớn nhằm thực hiện thắng lợi những mục tiêu kinh tế xã hội tổng quát trong những năm 80 của thế kỷ XX. Đại hội lần thứ VI họp từ ngày 17 đến ngày 20/10/1988 tại Hội trường Ba Đình, Thủ đô Hà Nội. Về dự có 834 đại biểu thay mặt cho gần 4 triệu đoàn viên Công đoàn trong cả nước. Đại hội đã đổi tên Tổng Công đoàn Việt Nam thành Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam , công đoàn tỉnh, huyện đổi thành Liên đoàn Lao động. Các chức danh Thư ký Công đoàn gọi là Chủ tịch Công đoàn. Đại hội VI Công đoàn Việt Nam là đại hội đổi mới của phong trào công nhân và tổ chức Công đoàn Việt Nam. Đại hội đã bầ ... bộ tham mưu của giai cấp công nhân, ngay từ ngày đầu thành lập Đảng đã xác định: "Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng" (Văn kiện Đảng toàn tập, NXB Chính tr? quốc gia, Hà Nộii, 2002, t2, tr4). Qua từng giai đoạn cách mạng, quan điểm của Đảng ta về vị trí, vai trò của giai cấp công nhân, về xây dựng, phát triển giai cấp công nhân ngày càng được bổ sung, hoàn thiện. Trong suốt quá trình lãnh đạo đấu tranh giành chính quyền, Đảng ta luôn coi giai cấp công nhân là lực lượng nòng cốt, lãnh đạo cách mạng và đã đưa ra nhiều chủ trương, chính sách nhằm tập hợp, xây dựng giai cấp công nhân vững mạnh, thực sự phát huy được vai trò tiên phong trong cách mạng, góp phần đưa sự nghiệp đấu tranh giải phóng đất nước đi đến thắng lợi. Khi nước nhà thống nhất, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, vấn đề xây dựng và phát huy vai trò của giai cấp công nhân tiếp tục được Đảng ta đặc biệt quan tâm. Nghị quyết Đại hội IV của Đảng xác định: xây dựng giai cấp công nhân không ngừng lớn mạnh về số lượng và chất lượng, xứng đáng với vai trò giai cấp tiên phong, lãnh đạo cách mạng là nhiệm vụ trọng tâm trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, nhận thức rõ ý nghĩa quan trọng của vấn đề xây dựng và phát triển giai cấp công nhân trong giai đoạn cách mạng mới, Nghị quyết Đại hội VI của Đảng (năm 1986) chỉ rõ: "Đảng cần có những biện pháp cụ thể nhằm nâng cao giác ngộ xã hội chủ nghĩa và trình độ hiểu biết về mọi mặt để xứng đáng với vị trí giai cấp tiên phong của cách mạng, đồng thời chăm lo đời sống vật chất và văn hóa, tạo ra những điều kiện cần thiết để giai cấp công nhân hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình" (Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, NXB Sự Thậtt, Hà Nội, 1987, tr 115). Hội nghị Trung ương 7 khóa VII khẳng định: "Xây dựng giai cấp công nhân vững mạnh là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, công đoàn và các tổ chức chính trị - xã hội, đồng thời là trách nhiệm của mỗi người, mỗi tập thể công nhân" (Van ki?n H?i ngh? l?n th? b?y Ban Ch?p hành Trung uong khóa VII, Hà N?i, 1994, tr 98). Quan điểm này tiếp tục được khẳng định và phát triển tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII (năm 1996). Bước vào thế kỷ XXI, trước yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, tư duy của Đảng về giai cấp công nhân ngày càng phát triển và hoàn thiện. Tại Đại hội IX (năm 2001), Đảng ta khẳng định: "Đối với giai cấp công nhân, coi trọng phát triển về số lượng và chất lượng, nâng cao giác ngộ và bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn và nghề nghiệp, thực hiện "trí thức hóa công nhân", nâng cao năng lực ứng dụng và sáng tạo công nghệ mới, lao động đạt năng suất, chất lượng và hiệu quả ngày càng cao, xứng đáng là một lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và vai trò lãnh đạo cách mạng trong thời kỳ mới..." (Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr 124 – 125). Bước vào thời kỳ đất nước ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, Hội nghị lần thứ 6, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X đã ban hành Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 28/1/2008 về “Tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”. Năm quan điểm của Đảng được thể hiện trong Nghị quyết Trung ương 6 xuyên suốt cả về nhận thức và hành động trong quá trình thực hiện chiến lược xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam lớn mạnh trong thời kỳ mới. Quan điểm quan trọng bao trùm là “ Giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiên phong là Đảng Cộng sản Việt Nam, giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến, giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, lực lượng nòng cốt trong liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ tri thức dưới sự lãnh đạo của Đảng. Sự lớn mạnh của giai cấp công nhân là một điều kiện tiên quyết bảo đảm thành công của công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”. Đây là quan điểm đầu tiên, quan trọng nhất đề cao vai trò, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay và các thời kỳ cách mạng sau này. Nhận thức sâu sắc, đầy đủ quan điểm này của Đảng về giai cấp công nhân vừa là một yêu cầu bức thiết, vừa là tình cảm, trách nhiệm của toàn Đảng và xã hội không chỉ đối với giai cấp công nhân, mà còn đối với sự nghiệp phát triển đất nước, đặc biệt trong cơ chế thị trường và sự phát triển không ngừng của các loại hình doanh nghiệp, của các thành phần kinh tế chi phối và ảnh hưởng nhiều đến giai cấp công nhân. Từ quan điểm lớn này, Nghị quyết TW6 nêu ra những quan điểm chỉ đạo quan trọng, cần được nhận thức đúng, đó là: - Xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh phải gắn kết hữu cơ với xây dựng, phát huy sức mạnh của liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng, của tất cả các giai cấp, các tầng lớp xã hội trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc - động lực chủ yếu của sự phát triển đất nước, đồng thời tăng cường quan hệ đoàn kết, hợp tác quốc tế với giai cấp công nhân trên toàn thế giới. - Chiến lược xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh phải gắn kết chặt chẽ với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế. Xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội và chăm lo xây dựng giai cấp công nhân; đảm bảo hài hoà lợi ích giữa công nhân, người sử dụng lao động, Nhà nước và toàn xã hội; không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của công nhân, quan tâm giải quyết kịp thời những vấn đề bức xúc, cấp bách của giai cấp công nhân. - Đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ mọi mặt cho công nhân, không ngừng trí thức hoá giai cấp công nhân là một nhiệm vụ chiến lược. Đặc biệt quan tâm xây dựng thế hệ công nhân trẻ có học vấn, chuyên môn và kỹ năng nghề nghiệp cao, ngang tầm khu vực và quốc tế, có lập trường giai cấp và bản lĩnh chính trị vững vàng, trở thành bộ phận nòng cốt của giai cấp công nhân. - Xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của toàn xã hội và sự nỗ lực vươn lên của bản thân mỗi người công nhân, sự tham gia đóng góp tích cực của người sử dụng lao động; trong đó, sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước có vai trò quyết định, công đoàn có vai trò quan trọng trực tiếp trong chăm lo xây dựng giai cấp công nhân. Xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh phải gắn liền với xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, xây dựng tổ chức Công đoàn, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và các tổ chức chính trị - xã hội khác trong giai cấp công nhân vững mạnh. ---------------------------------------------------- Câu hỏi 5: Đồng chí hãy cho biết chiến lược xây dựng giai cấp công nhân của tổ chức Công đoàn trong giai đoạn hiện nay? Liên hệ thực tiễn tại CĐCS nơi đồng chí sinh hoạt, công tác? Trả lời: Ngay sau khi có Nghị quyết số 20/NQ-TƯ, Hội nghị lần thứ 6, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về “Tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đã ban hành Chương trình hành động số 399/Ctr-TLĐ ngày 7/3/2008. Mục tiêu tổng quát của chương trình là: 1- Nâng cao nhận thức của cán bộ, đoàn viên, công nhân, viên chức, lao động cả nước về vị trí, vai trò to lớn của GCCN Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. 2- Góp phần cải thiện và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, sức khỏe của công nhân; nâng cao giác ngộ giai cấp, bản lĩnh chính trị, ý thức tổ chức kỷ luật, tác phong công nghiệp, trình độ học vấn, chuyên môn nghề nghiệp cho công nhân; xây dựng GCCN lớn mạnh. 3- Tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức hoạt động, xây dựng tổ chức công đoàn vững mạnh đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới; nâng cao tinh thần trách nhiệm, chất lượng và hiệu quả thực hiện nhiệm vụ xây dựng GCCN của tổ chức công đoàn. Chương trình xác định chỉ tiêu phấn đấu đến năm 2013 là: - Tham gia cùng với cơ quan quản lý nhà nước phấn đấu đến năm 2013, có 70% trở lên công nhân qua đào tạo chuyên môn, nghề nghiệp; giảm 80% số vụ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp; 65% trở lên số công nhân được tham gia bảo hiểm xã hội. - Hàng năm có 100% cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp nhà nước tổ chức hội nghị cán bộ, công chức; hơn 90% doanh nghiệp nhà nước tổ chức đại hội công nhân, viên chức, trên 50% số công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn tổ chức hội nghị người lao động. - Trong 5 năm (2008-2013), kết nạp mới ít nhất 1,5 triệu đoàn viên. Đến năm 2013, có 70% số doanh nghiệp đủ điều kiện theo quy định của Điều lệ Công đoàn Việt Nam thành lập được công đoàn cơ sở và tập hợp được từ 60% trở lên công nhân, viên chức, lao động trong doanh nghiệp gia nhập công đoàn. - Đến năm 2013, có 70% trở lên số công đoàn cơ sở doanh nghiệp ký thỏa ước lao động tập thể, 100% cán bộ công đoàn các cấp được đào tạo bồi dưỡng, tập huấn về lý luận nghiệp vụ công đoàn. - Hàng năm có trên 80% công đoàn cơ sở ở các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp và doanh nghiệp thuộc khu vực nhà nước và 40% công đoàn cơ sở ở khu vực ngoài nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt tiêu chuẩn “công đoàn cơ sở vững mạnh”, có 10% đạt tiêu chuẩn “công đoàn cơ sở vững mạnh xuất sắc”. - Giới thiệu mỗi năm ít nhất 30.000 công nhân ưu tú để cấp ủy Đảng bồi dưỡng, xem xét, kết nạp vào Đảng (Chỉ tiêu này đến Đại hội X Công đoàn Việt Nam xác định là 90.000). Chương trình đề ra 5 nhóm nhiệm vụ, giải pháp : 1. Làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục, góp phần nâng cao chất lượng giai cấp công nhân đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. 2. Chủ động và tham gia giải quyết có hiệu quả những bức xúc của công nhân. 3. Đẩy mạnh phát triển đoàn viên, xây dựng tổ chức công đoàn vững mạnh, góp phần xây dựng giai cấp công nhân, xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh. 4. Vận động công nhân tham gia các phong trào thi đua yêu nước góp phần phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh. 5. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn về giai cấp công nhân và hoạt động công đoàn. Đặc biệt, năm 2009, thực hiện ý kiến chỉ đạo của Ban Bí Thư, Đảng Đoàn Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đang nghiên cứu xây dựng đề án chiến lược xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam (2011-2020).
Tài liệu đính kèm: