I/ Cơ sở lý luận:
- Xuất phát từ mục tiêu và yêu cầu của ngành GD- ĐT, sự nghiệp giáo dục càng đổi mới, càng phát triển thì người làm công tác giáo dục càng phải tích cực đổi mới để theo kịp và đáp ứng được nhu cầu của xã hội. Trong sự nghiệp giáo dục, người thầy - Người trực tiếp giảng dạy có vai trò quyết định trong việc nâng cao chất lượng dạy- học. Muốn học sinh tích cực, chủ động, sáng tạo thì người dạy phải tích cực, chủ động, sáng tạo, có nghĩa là người thầy phải thực sự là một tấm gương tự học, tự sáng tạo. Muốn học sinh học tốt thì người thầy phải dạy tốt, phải biết hướng dẫn cho HS phương pháp học tập có hiệu quả và điều trước tiên người dạy phải có phương pháp dạy học hiệu quả, thu hút được hứng thú học tập của học sinh. Để quản lý được hoạt động dạy và học, ban giám hiệu nhà trường ngoài chức năng kiểm tra, giám sát việc thực hiện quy chế chuyên môn của giáo viên đồng thời còn có nhiệm vụ kèm cặp giúp đỡ giáo viên về mọi mặt, đặc biệt là những giáo viên còn non yếu về chuyên môn nghiệp vụ để hoàn thành chức trách của người cán bộ quản lý và góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy trong nhà trường.
Trình độ chuyên môn của giáo viên phải thường xuyên được quan tâm bồi dưỡng, gọt giũa thì mới nói đến việc nâng cao chất lượng dạy- học trong nhà trường cũng như “Vàng càng mài càng sáng, ngọc càng luyện càng trong”.
TỔNG KẾT KINH NGHIỆM : Đề tài BỒI DƯỠNG CHUYÊN MÔN CHO GV CÓ TAY NGHỀ CÒN YẾU A/ Phần một : ĐẶT VẤN ĐỀ 1/ Lý do chọn đề tài: a/ Lý do khách quan: - Năm học 2010- 2011 là năm thứ hai thực hiện chủ đề “ Đổi mới công tác quản lý và nâng cao chất lượng giáo dục”, năm học tiếp tục thực hiện phong trào “ Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” trên cơ sở nền tảng của nhiều năm ngành GD- ĐT đã chấn chỉnh nề nếp, kỉ cương qua cuộc vận động “Hai không” với nội dung nổi bật “ Chống tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục”. Việc ngành giáo dục triển khai các phong trào thi đua và các cuộc vận động cũng xuất phát từ mục tiêu chung của ngành là nâng cao chất lượng dạy- học để đào tạo ra thế hệ những con người vừa có đủ đức, vừa có đủ tài kế tục sự nghiệp tương lai của đất nước, góp phần đắc lực vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đáp ứng nhu cầu hội nhập quốc tế và nhu cầu phát triển của người học. Vì thế, giáo dục phổ thông đã và đang đổi mới mạnh mẽ theo bốn trụ cột của giáo dục thế kỉ XXI đó là giúp người học : Học để biết, học để làm, học để tự khẳng định mình và học để cùng chung sống. Cho nên, mục tiêu của giáo dục phổ thông đã và đang chuyển hướng theo cách vừa trang bị kiến thức, vừa trang bị những năng lực cần thiết cho học sinh. Chính vì vậy mà phương pháp giáo dục đã và đang đổi mới theo hướng phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của người học phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học. Để làm được việc đó không ai khác là các nhà trường và cụ thể là đội ngũ giáo viên trực tiếp giảng dạy. Muốn nâng cao chất lượng học của người học thì trước hết phải nâng cao chất lượng dạy của người dạy, bởi người dạy luôn chiếm một vị trí quan trọng và là yếu tố quyết định thành bại của sự nghiệp trồng người. b/ Lý do chủ quan: - Qua thực tế giảng dạy nhiều năm ở trường, được cùng làm việc với các đồng nghiệp, tôi nhận thấy một điều rằng : Cùng là giáo viên có trình độ đào tạo như nhau, bằng cấp như nhau nhưng không phải năng lực giảng dạy của ai cũng giống ai, trong việc soạn bài, cũng như giảng dạy trên lớp của giáo viên còn nhiều bất cập, đặc biệt là việc sử dụng các phương pháp và kĩ thuật, thiết bị dạy học sao cho có hiệu quả đang còn là vấn đề lan giải được các cấp quản lý và giáo viên quan tâm nhiều. - Hơn nữa, trong thời buổi cơ chế thị trường, thời đại bùng nổ công nghệ thông tin, Giáo viên hầu như đều trang bị được cho mình máy vi tính để soạn bài, cho nên việc soạn bài bằng tay đã dần được thay thế. Việc soạn bài bằng máy vi tính có nhiều thuận lợi cho giáo viên nhưng lợi bất cập hại, không tránh khỏi tình trạng giáo viên đi cóp pi giáo án của người khác về làm vốn riêng của mình. Cho nên chất lượng soạn giảng của một bộ phận giáo viên hiện nay đang có chiều hướng đi xuống. Điều đó khiến một người làm công tác quản lý, trực tiếp phụ trách mảng chuyên môn của nhà trường như tôi không tránh khỏi những trăn trở, băn khoăn. Tôi thiết nghĩ muốn nâng cao chất lượng của người học thì việc trước tiên phải quan tâm nâng cao chất lượng soạn, giảng của người dạy . Đặc biệt trong điều kiện hiện nay khi một giáo viên lên lớp cùng một tiết dạy phải đảm bảo đạt chuẩn kiến thức- kĩ năng, lồng ghép giáo dục tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh và kĩ năng sống cho học sinh thì việc bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên đã trở thành một vấn đề cấp thiết cần được quan tâm đúng mức hơn nữa. Chính vì vậy mà trong hai năm học: 2009- 2010, 2010- 2011 tôi đã tập trung vào một chuyên đề là bồi dưỡng chuyên môn cho GV có tay nghề còn non yếu. 2/ Đối tượng thực hiện đề tài: - Giáo viên dạy môn ngữ văn. Phần hai : GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I/ Cơ sở lý luận: - Xuất phát từ mục tiêu và yêu cầu của ngành GD- ĐT, sự nghiệp giáo dục càng đổi mới, càng phát triển thì người làm công tác giáo dục càng phải tích cực đổi mới để theo kịp và đáp ứng được nhu cầu của xã hội. Trong sự nghiệp giáo dục, người thầy - Người trực tiếp giảng dạy có vai trò quyết định trong việc nâng cao chất lượng dạy- học. Muốn học sinh tích cực, chủ động, sáng tạo thì người dạy phải tích cực, chủ động, sáng tạo, có nghĩa là người thầy phải thực sự là một tấm gương tự học, tự sáng tạo. Muốn học sinh học tốt thì người thầy phải dạy tốt, phải biết hướng dẫn cho HS phương pháp học tập có hiệu quả và điều trước tiên người dạy phải có phương pháp dạy học hiệu quả, thu hút được hứng thú học tập của học sinh. Để quản lý được hoạt động dạy và học, ban giám hiệu nhà trường ngoài chức năng kiểm tra, giám sát việc thực hiện quy chế chuyên môn của giáo viên đồng thời còn có nhiệm vụ kèm cặp giúp đỡ giáo viên về mọi mặt, đặc biệt là những giáo viên còn non yếu về chuyên môn nghiệp vụ để hoàn thành chức trách của người cán bộ quản lý và góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy trong nhà trường. Trình độ chuyên môn của giáo viên phải thường xuyên được quan tâm bồi dưỡng, gọt giũa thì mới nói đến việc nâng cao chất lượng dạy- học trong nhà trường cũng như “Vàng càng mài càng sáng, ngọc càng luyện càng trong”. II/ Cơ sở thực tiễn. 1/ Kết quả khảo sát + Từ thực tế của trường THCS Nguyễn Chí Thanh có tổng số 21 giáo viên trực tiếp giảng dạy với đủ các bộ môn. 100% giáo viên đạt trình độ chuẩn và trên chuẩn xong trong giảng dạy vẫn còn một bộ phận giáo viên hạn chế về tay nghề, kinh nghiệm ít, thực hiện đổi mới phương pháp dạy học cón lúng túng, chất lượng của việc soạn giảng dạy chưa cao, thậm chí có tiết dạy chưa đạt yêu cầu . Cụ thể : Trong năm học 2009- 2010 còn 02 GV xếp loại chuyên môn : Trung bình 01 giáo viên dự giờ còn có tiết xếp loại : Chưa đạt yêu cầu. ( Những tiết chưa đạt yêu cầu chủ yếu rơi vào một giáo viên dạy môn Ngữ văn) Từ thực tế trên, tôi đã tập trung tìm hiểu nguyên nhân của tồn tại và các giải pháp nhằm giúp đỡ nâng cao chất lượng soạn - giảng cho đồng chí GV đó. 2/ Những tồn tại của GV trong việc soạn giáo án và giảng dạy: 2.1/ Soạn bài: - Bài soạn sơ sài, chưa xác định được kiến thức, kĩ năng trọng tâm, soạn qua loa đặc biệt là các tiết: Luyện tập, luyện nói, trả bài, hướng dẫn bài viết ở nhà, ôn tập. Khi có tài liệu chuẩn kiến thức- kĩ năng thì cụ thể hóa vào bài dạy còn lúng túng, máy móc. - Giáo án chưa thể hiện rõ hoạt động của thầy và trò trong tiết dạy. - Hệ thống câu hỏi đơn điệu, thiếu lô ric, trùng lặp, khó hiểu đối với học sinh. Ít tình huống khiến HS dễ nhàm chán, giáo viên không chú ý nhiều đến làm và sử dụng đồ dùng dạy học như : Bảng phụ, phiếu học tập, tranh ảnh 2.2/ Về tiết dạy: - Giáo viên chưa chú ý đến việc mở rộng, khắc sâu kiến thức trọng tâm của bài học, mới chỉ dừng ở mức độ cung cấp kiến thức theo trình tự kiến thức có trong SGK. - Sử dụng phương pháp và kĩ thuật dạy học thiếu linh hoạt, máy móc, chưa phù hợp với đơn vị kiến thức của từng phần trong tiết học. - Giáo viên truyền tải kiến thức còn nhầm lẫn, không đầy đủ. Sử dụng đồ dùng dạy học thiếu linh hoạt, ít hiệu quả. - Giảng nhiều, ghi bảng chưa chọn lọc,câu, từ chưa chuẩn mực, phân phối thời gian chưa hợp lý, tổ chức cho học sinh hoạt động nhóm còn nặng hình thức, lựa chọn câu hỏi cho HS thảo luận chưa phù hợp, ít tình huống, không phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của HS. 3/ Nguyên nhân. - Trước hết phải kể đến nguyên nhân chủ quan của bản thân giáo viên: Mới ra trường, kinh nghiệm còn ít, nhà ở xa trường, điều kiện kinh tế gặp nhiều khó khăn lại có con nhỏ nên cũng ảnh hưởng không ít đến công tác . - Giáo viên chưa quan tâm, đầu tư cho việc soạn bài, ít nghiên cứu, tham khảo tài liệu. Thậm chí giáo viên còn lên mạng, hoặc cóp pi giáo án của đồng nghiệp về tham khảo nhiều, cho nên thường rối, khó định hướng cho bài soạn của mình. - Giáo viên chưa thiết kế được hệ thống câu hỏi phù hợp, chủ yếu dựa vào câu hỏi có trong sách giáo khoa( Câu hỏi hướng dẫn HS chuẩn bị bài ở nhà) ít sáng tạo thêm các câu hỏi khác. - Vốn kiến thức về văn học, thức tế của giáo viên còn hạn chế, việc lựa chọn kiến thức dành cho học sinh ghi còn lúng túng. Cẩu thả trong soạn và giảng. - Khi dạy trên lớp giáo viên chưa thực sự làm chủ được các đơn vị kiến thức trong bài dạy, còn phụ thuộc nhiều vào giáo án, có tâm lý sợ học sinh không hiểu bài nên nói nhiều, giảng nhiều thậm chí còn làm thay học sinh. - Vì chưa thiết kế được hệ thống câu hỏi phù hợp nên các bước tiến hành còn trùng lặp, không kích thích và phát huy được tính tích cực của HS. - Việc dự giờ thăm lớp để tự học hỏi bồi dưỡng cho chuyên môn của giáo viên hạn chế. Khi dự giờ đồng nghiệp thường ngại góp ý kiến, không mạnh dạn trình bày những suy nghĩ của mình. III/ Con đường thực hiện bồi dưỡng. 1/ Nhận thức của bản thân - Người làm công tác quản lý luôn phải bám sát chỉ thị nhiệm vụ năm học, vào kế hoạch chỉ đạo của phòng GD-ĐT để xây dựng kế hoạch chuyên môn. Hoạt động dạy và học là hoạt động trọng tâm của nhà trường cho nên việc bồi dưỡng để nâng cao năng lực giảng dạy của người thầy không thể chỉ hô hào chung chung, không thể chỉ triển khai, kiểm tra, đánh giá và lại càng không thể để tự giáo viên đó làm việc đơn thuần mà phải có sự trợ giúp của tổ chuyên môn, nhóm bộ môn, ban giám hiệu. Nhận thức được điều trên, với thuận lợi là một giáo viên đã từng đứng lớp nhiều năm, lại cùng chuyên môn văn nên tôi đã mạnh dạn đăng kí với nhà trường làm một việc có hiệu quả trong năm là giúp đỡ một đồng chí giáo viên có tay nghề yếu cuối năm đạt xếp loại về chuyên môn đạt : Trung bình trở lên. 2/ Giải pháp 2.1/Với điều kiện ngoại cảnh : - Bản thân tôi ngay từ đầu năm đã kết hợp với ban giám hiệu, ban chấp hành công đoàn nhà trường tìm hiểu hoàn cảnh, nắm bắt tư tưởng tình cảm của đồng chí giáo viên đó và tạo mọi điều kiện thuận lợi có thể để giúp giáo viên ổn định cuộc sống. Phân công, phân nhiệm hợp lý với chuyên môn, điều kiện sức khỏe, gia đình và thường xuyên động viên giáo viên đó yên tâm công tác. 2.2/ Hướng dẫn soạn bài: - Trên cơ sở phân phối chương trình, sách giáo khoa, sách giáo viên, tài liệu chuẩn kiến thức, kĩ năng tôi yêu cầu giáo viên đó nghiên cứu chương trình dạy trước một tuần và soạn bài( Ví dụ tuần 3 phải chuẩn bị bài của tuần 4) trong quá trình soạn có nội dung nào chưa rõ hoặc hiểu chưa sâu đề nghị giáo viên ghi lại và trao đổi với tôi hoặc nhóm trưởng bộ môn. Sau khi kiểm tra tôi tập trung hướng dẫn giáo viên vào các vấn đề cơ bản sau: + Giúp GV đó cụ thể hóa kiến thức, kĩ năng cơ bản cho từng phần, từng đơn vị kiến thức trong bài. + Xây dựng hệ thống câu hỏi : Dựa vào kiến thức của từng phần mà đặt ra các câu hỏi, tình huống hợp lý để hướng dẫn HS tìm hiểu kiến thức. + Định hướng các hoạt động của thầy và trò cũng như việc lựa chọn các phương pháp và kĩ thuật dạy học, sử dụng đồ dùng dạy học ra sao trong từng tiết học để tránh dập khuôn, máy móc .( Tuy nhiên tôi chỉ dừng ở mức độ gợi ý, định hướng chứ không làm thay cho giáo viên ). Đặc biệt tôi chú ý nhiều đến các tiết dạy khó. * Ví dụ : Tiết 50 môn Ngữ văn lớp 7 ( HK I) Khi dạy bài: Cách làm bài văn biểu cảm về tác phẩm văn học Trong SGK đưa ra một bài văn mẫu : Cảm nghĩ về một bài ca dao. Là bài văn mẫu nhưng xét về cấu trúc của một bài văn biểu cảm thông thường thì bài văn đó ở dạng đặc biệt, không có đầy đủ ba phần: Mở bài, thân bài, kết bài. Trong khi đó chuẩn kiến thức yêu cầu cho học sinh nắm được bài văn phát biểu cảm nghĩ về tác phẩm văn học cũng phải có ba phần. Hơn nữa với đối tượng lớp có nhiều học sinh dân tộc thì đưa bài văn đó làm mẫu để tìm hiểu là không phù hợp, học sinh rất khó hình dung, khó xác định cho nên tôi đã gợi ý để đồng chí giáo viên đó nghiên cứu, tìm một bài văn mẫu có nội dung đơn giản, gần gũi với các em hơn và cũng có đủ bố cục ba phần đề HS dễ tìm hiểu ( Ví dụ lấy bài văn mẫu phát biểu cảm nghĩ về một tác phẩm mới học xong như: Cảnh khuya, Bánh trôi nước, Rằm tháng riêng) Bài văn mẫu đó có thể giáo viên sưu tầm hoặc tự làm. + Đồng thời tôi cũng chú ý nhiều đến việc hướng dẫn giáo viên làm các đồ dùng phục vụ cho tiết dạy như : Bảng phụ, phiếu học tập, lựa chọn hệ thống ví dụ ( Trong Tiếng Việt) sao cho phù hợp đảm bảo tính toàn diện, tiêu biểu đặc trưng cho các đơn vị kiến thức nhưng cũng vừa sức với học sinh. + Sau khi hướng dẫn giáo viên soạn bài , tôi tiến hành kiểm tra( Cũng có khi giao cho nhóm trưởng bộ môn hoặc tổ trưởng kiểm tra) nếu chưa đạt tôi tôi yêu cầu đồng chí đó soạn lại rồi mới được dạy. + Về kiểm tra hồ sơ : Theo quy định đối với giáo viên soạn bài bằng máy vi tính thì cứ 4 tuần dạy, kiểm tra giáo án một lần nhưng đối với đồng chí giáo viên đó tôi thường xuyên kiểm tra, có thể một tuần một lần, một tuần hai lần, kiểm tra dưới nhiều hình thức. + Đặc biệt tôi chú ý đến việc xác định các kiến thức- kĩ năng cơ bản, trọng tâm không để xảy ra tình trạng soạn sai kiến thức( Bởi phân môn Tiếng Việt kiến thức rất đa dạng và phức tạp). 2.2.3 Vê tiết dạy trên lớp : - Tôi thường xuyên động viên và tạo điều kiện thuận lợi để giáo viên đó được đi dự giờ đồng nghiệp. Sau mỗi lần dự giờ tiến hành trao đổi, rút kinh nghiệm tỉ mỉ, cặn kẽ. - Cùng với đồng chí tổ trưởng, nhóm trưởng bộ môn dự giờ và rút kinh nghiệm cho đồng chí đó, thậm chí có bài dạy dự hai lần: * Ví dụ : Cùng một khối 7 có 3 lớp + Tôi tiến hành dự tiết thứ nhất ở 7a sau đó rút kinh nghiệm và để giáo viên đó dạy lại ở lớp 7b ( cùng một bài) và tôi hoặc một đồng nghiệp khác dạy lại bài đó ở lớp 7c, sau khi dạy xong cùng ngồi lại rút kinh nghiệm. Qua cách làm như vậy đã tạo ra được một không khí học tập, trao đổi kinh nghiệm thật vui vẻ,người được trực tiếp giúp đỡ không chỉ thấy được ưu, nhược điểm của mình mà còn tham khảo được cách dạy của đồng nghiệp trong cùng một bài để rồi tự rút kinh nghiệm cho bản thân . - Trong quá trình công tác tôi luôn cố gắng tạo không khí hòa đồng, khơi gợi để đồng nghiệp của mình mạnh dạn bộc lộ suy nghĩ cũng như những trăn trở, vướng mắc trong việc soạn, giảng. Nhiều bài dạy khó tôi đã chủ động trao đổi, và gợi ý những giải pháp hay cho bài dạy để giáo viên soạn, giảng đạt hiệu quả. - Với những tiết mà thông thường khi dự giờ người dự thường né tránh, người dạy cũng không muốn bị dự tiết đó như: Tiết trả bài, luyện nói, luyện tập viết đoạn văn, ôn tập thì tôi tập trung dự. Ban đầu cũng vấp phải không ít khó khăn, có giáo viên cho rằng làm như thế là gây áp lực. Nhưng sau nhiều lần trao đổi giáo viên đó cũng nhận thức được vấn đề và chủ động mời tôi đi dự. 4/ Kết quả. Qua thực hiện hơn một năm học, tôi nhận thấy việc bồi dưỡng tay nghề cho giáo viên là một việc thật khó nhưng như thế không có nghĩa là không làm được. Qua quá trình thực hiện cùng với sự trợ giúp của đồng chí hiệu trưởng, tổ chuyên môn và sự kết hợp của chính bản thân đồng chí giáo viên đó tôi đã thu được kết quả khá khả quan: Cụ thể: * Về việc soạn bài : Giáo viên được giúp đỡ đã thực sự có ý thức đầu tư, nghiên cứu soạn bài cẩn thận, chu đáo hơn, hạn chế được những tiết soạn sơ sài. Trong bài soạn giáo viên đã xây dựng được hệ thống câu hỏi khá phù hợp với các đơn vị kiến thức, thể hiện khá rõ công việc của thầy và trò trong từng hoạt động. Đặc biệt giáo viên đã biết bám sát vào chuẩn kiến thức- kĩ năng cơ bản để cụ thể hóa trong bài dạy và bước đầu có sự sáng tạo trong việc lựa chọn hệ thống ví dụ, các dạng bài tập cho phù hợp với đối tượng học sinh của từng lớp. - Sau các đợt kiểm tra hồ sơ đã được xếp loại : từ trung bình → khá. * Về việc giảng dạy trên lớp: - Giáo viên đó đã có nhiều tiến bộ so với trước, lên lớp đã thoát ly được giáo án, truyền thụ đảm bảo kiến thức, kĩ năng cơ bản, hạn chế được những sai sót mà trước đây thường mắc phải. - Giáo viên biết sử dụng các phương pháp và kĩ thuật dạy học phù hợp hơn, tuy chưa thật nhuần nhuyễn, linh hoạt nhưng không còn dập khuôn máy móc như trước nữa. - Giáo viên cũng hạn chế được việc nói nhiều, giảng nhiều thay vào đó là tổ chức nhiều hoạt động giúp học sinh tìm hiểu kiến thức, việc ghi bảng cũng đã có chuyển biến khá rõ rệt, kiến thức đã có sự chọn lọc, sử dụng từ ngữ chuẩn xác hơn,. - Việc tổ chức cho học sinh hoạt động nhóm có hiệu quả hơn trước và đặc biệt trong các giờ học học sinh không còn ồn ào, làm việc riêng mà các em có ý thức học tập hơn, kĩ năng sử lý các tình huống trong tiết dạy của giáo viên khá hơn so với trước. - Qua dự giờ hầu hết các giờ đều được xếp loại Trung bình, có giờ đạt loại TB khá. Phần ba: KẾT LUẬN Qua quá trình thực hiện công việc bồi dưỡng giáo viên có tay nghề còn yếu, tôi nhận thấy một điều rằng đây là một việc làm không mấy dễ dàng, và không thể làm trong một tháng , hai tháng mà đòi hỏi phải tiến hành trong một thời gian lâu dài. Khi tiến hành, điều thuận lợi đối với tôi là luôn nhận được sự ủng hộ của đồng chí hiệu trưởng nhà trường, của tổ chuyên môn và nhóm bộ môn cũng như các giáo viên khác. Hơn nữa vì làm công tác quản lý, số tiết dạy ít nên tôi có thời gian để kèm cặp, giúp đỡ cho giáo viên, vả lại được công tác nhiều năm cho nên tôi cũng đúc rút được chút ít kinh nghiệm, lại cùng chuyên môn văn nên rất thuận lợi cho việc thực hiện chuyên đề của mình. * Tuy nhiên trong quá trình thực hiện tôi cũng gặp không ít khó khăn: + Thứ nhất : Từ chính giáo viên được giúp đỡ: Ban đầu đồng chí giáo viên đó còn e dè, mặc cảm về những hạn chế trong chuyên môn, không muốn người khác biết đến yếu kém của mình, hoặc gặp những bài khó không dám hỏi, sợ mất nhiều thời gian soạn đi, soạn lại. + Thứ hai: Khi tiến hành kiểm tra hồ sơ, dự giờ thường xuyên giáo viên đó, có không ít đồng nghiệp cho rằng làm như vậy là gây áp lực với đồng nghiệp. Nhưng với sự quyết tâm của bản thân tôi và nghĩ đến trách nhiệm của một người làm công tác quản lý, tôi đã kiên trì gặp gỡ trao đổi để dần dần đồng chí giáo viên đó hiểu được việc làm của bản thân nên tôi đã nhận được sự ủng hộ của đồng nghiệp đặc biệt là sự nỗ lực cố gắng của chính bản thân giáo viên đó. * Từ việc bồi dưỡng giáo viên có tay nghề còn yếu tôi nhận thấy việc đổi mới công tác quản lý để nâng cao chất lượng dạy – học là việc làm phải được tiến hành thường xuyên, đồng bộ, không chỉ dừng ở việc kiểm tra, dự giờ thăm lớp, thao giảng, hội giảng mà phải có những biện pháp tích cực, cụ thể hơn. Không chỉ là động viên, tạo điều kiện để cá nhân từng giáo viên tự học, tự bồi dưỡng mà phải có sự tác động tích cực của ban giám hiệu nhà trường, của tổ chuyên môn cũng như nhóm bộ môn, đặc biệt là của những đồng nghiệp có cùng chuyên môn. - Người giúp đỡ phải có kế hoạch cụ thể, nhiệt tình và có tinh thần trách nhiệm, phải biết sắp xếp thời gian để nghiên cứu kĩ chương trình, nhập tâm vào bài dạy. Như vậy giáo viên mới có những định hướng chính xác, gợi mở tận tình để người được giúp đỡ có sự tiếp nhận từ thấp đến cao, học hỏi, tích lũy kinh nghiệm từng bước một .
Tài liệu đính kèm: