II. Thực trạng của vấn đề
1 Thực trạng
Từ trước đến nay giáo viên chưa thực sự chú trọng , đầu tư vào việc dạy các tiết luyện tập , nhiều giáo viên xem đấy chỉ là tiết học dùng để chữa các bài tập đã giao về nhà cho học sinh. Vì vậy các tiết luyện tập bao giờ cũng chỉ tiến hành theo trình tự rập khuôn , giáo viên kiểm tra lý thuyết rồi gọi học sinh lần lượt lên chữa bài tập , giáo viên kêt luận vầ cho điểm . Việc làm này đem lại sự nhàm chán cho bản thân giáo viên và học sinh ,tiết luyện tập diễn ra một cách buồn tẻ học sinh không có hứng thú học bài , học sinh khá giỏi ngồi nói chuyện riêng , học sinh trung bình , yếu , kém không hiểu để làm bài do giáo viên không cô đọng các kiến thức, kỹ năng trọng tâm của tiết luyện tập
Theo hướng đổi mới của phương pháp dạy học hiện nay , bản thân là giáo viên , với quan niệm quá trình học tập không chỉ là quá trình lĩnh hội các kiến thức có sẵn , mà còn là quá trình học sinh tự khám phá , tự phát hiện , tự tìm tòi đến với kiến thức mới nhờ sự học sinhướng dẫn giúp đỡ và tổ chức của giáo viên . Tôi thấy mình phải nắm vững mục tiêu phương pháp dạy tiết luyện tập toán , góp một phần nào đó tạo điều kiện để tổ chức các hoạt động của học sinh nhằm “Phát huy tính tích cực , tự giác , chủ động , tư duy sáng tạo của người học , bồi dưỡng lòng say mê học tập và ý chí vươn lên” (Luật giáo dục )
2. Kết quả , hiệu quả của thực trạng trên
Chương trình thay SGK được bộ GD- ĐT ban học sinhành năm 2002 là cơ sở pháp lý và SGK là tài liệu chính thức để dạy và học bộ môn , là sự cụ thể hoá những quy định của chương trình .SGK hỗ trợ hiệu quả cho việc đổi mới phương pháp dạy học nhằm tích cực hoá hoạt động học tập của học sinh theo học sinhướng chủ động học tập của học sinh theo học sinhướng chủ động , tự nhận thức , tự giải quyết
Nếu giáo viên trongn quá trình dạy tiết luyện tập lại máy móc , cứng nhắc không quan tâm đến tính chất và yêu cầu cụ thể của từng tiết luyện tập , bao giờ cũng phải kiểm tra lý thuyết rồi mới cho ra bài tập đã được giao về nhà làm , không có các trò chơi giả trí , câu đố vui thì không thể phát triển tư duy , mặt bằng van hóa nói chung của học sinh không được nâng cao (ví dụ :không thể biết được “ Bình Ngô Đại Cáo ” của Nguyễn Trãi ra đời năm nào , nếu không cho học sinh làm bài 40 trang20 SGk.). Các bài tập mang tính phân hoá các bài tập nâng cao được bổ sung ở sách bài tập , đòi hỏi giáo viên phải đọc và lựa chọn cho phù học sinhợp . SGK mới rất quan tâm đến việc hướng dẫn học sinh sử dụng máy tính bỏ túi để làm các phép tính một cách nhanh chóng và thuận tiện . Nếu trong các tiết luyện tập giáo viên không quan tâm đên việc này thì học sinh sẽ không biết sử dụng thành thạo máy tính bỏ túi để tính
Bên cạnh đó học sinh mất dần học sinhứng thú học toán ,máy móc trong việc phát hiện và giải quyết vấn đề nảy sinh trong bài tập ,học sinhạn chế khả năng sử dụng ngôn ngữ chính xác , các phẩm chất của tư duy linh hoạt , độc lập và sáng tạo không được phát triển . Dẫn đến học sinh học thói quen ỷ lại , không mạnh dạn trình bày ý tưởng của mình
Vì vậy , rất cần một quá trình lao động sư phạm tích cực và sáng tạo của giáo viên ,nhằm nâng cao hiệu quả ,chất lượng các tiết luyện tập toán theo hướng đổi mới phương pháp dạy học
A. Đặt vấn đề: I. Lời mở đầu Toán học và khoa học tự nhiên là những nghành khoa học giữ vai trò rất quan trọng trong sự phát triển của xã hội loài người.Trong công cuộc công nghiệp hoá - Hiện đại hoá , Đảng và nhà nước ta coi “Giáo dục là quốc sách hàng đầu ”, trong đó toán học ,khoa học tự nhiên – công nghệ có vai trò cực kỳ quan trọng . Vì vậy ở trường THCS ở mỗi khối lớp số tiết dành cho bộ môn toán nhiều hơn so vưới các môn học khác . Để phù hợp với xu thế hiện nay trên thế giới , bộ GD - ĐT ban hành quyết định thay đổi SGK lớp 1 và lớp 6 vào năm 2002 Hướng đổi mới phương pháp dạy học toán học hiện nay là tích cực hoá hoạt động học tập của học sinh , khơi dậy và phát triển khả năng tự học, nhằm hình thành ở học sinh tư duy tích cực , độc lập, sáng tạo, nâng cao năng tực phát hiện và giải quyết vấn đề , rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn , tác động đến tình cảm , đem lại niềm vui , hứng thú học tập cho học sinh SGK toán mới không quá coi trọng tính cấu trúc , tính chính xác của hệ thống kiến thức toán học trong chương trình , hạn chế đưa vào chương trình những kết quả có tính lý thuyết thuần tuý và các phép chứng minh dài dòng , phức tạp không phù hợp với đại đa số học sinh . Tăng tính thực tiễn và tính sư phạm , tạo điều kiện để học sinh được tăng cường luyện tập thực hành , rèn luyện kỹ năng tính toán và vận dụng các kiến thức toán học vào đời sống và các môn học khác . Do đó , số tiết dành cho luyện tập khá nhiều Để đáp ứng được những yêu cầu trên , đòi hỏi bản thân người giáo viên dạy toán phải tìm tòi nghiên cứu , đổi mới “phương pháp dạy tiết luyện tập toán” góp phần vào việc “Dạy cho trí thông minh của các em hoạt động và phát triển” (Phạm Văn Đồng ) II. Thực trạng của vấn đề 1 Thực trạng Từ trước đến nay giáo viên chưa thực sự chú trọng , đầu tư vào việc dạy các tiết luyện tập , nhiều giáo viên xem đấy chỉ là tiết học dùng để chữa các bài tập đã giao về nhà cho học sinh. Vì vậy các tiết luyện tập bao giờ cũng chỉ tiến hành theo trình tự rập khuôn , giáo viên kiểm tra lý thuyết rồi gọi học sinh lần lượt lên chữa bài tập , giáo viên kêt luận vầ cho điểm . Việc làm này đem lại sự nhàm chán cho bản thân giáo viên và học sinh ,tiết luyện tập diễn ra một cách buồn tẻ học sinh không có hứng thú học bài , học sinh khá giỏi ngồi nói chuyện riêng , học sinh trung bình , yếu , kém không hiểu để làm bài do giáo viên không cô đọng các kiến thức, kỹ năng trọng tâm của tiết luyện tập Theo hướng đổi mới của phương pháp dạy học hiện nay , bản thân là giáo viên , với quan niệm quá trình học tập không chỉ là quá trình lĩnh hội các kiến thức có sẵn , mà còn là quá trình học sinh tự khám phá , tự phát hiện , tự tìm tòi đến với kiến thức mới nhờ sự học sinhướng dẫn giúp đỡ và tổ chức của giáo viên . Tôi thấy mình phải nắm vững mục tiêu phương pháp dạy tiết luyện tập toán , góp một phần nào đó tạo điều kiện để tổ chức các hoạt động của học sinh nhằm “Phát huy tính tích cực , tự giác , chủ động , tư duy sáng tạo của người học , bồi dưỡng lòng say mê học tập và ý chí vươn lên” (Luật giáo dục ) 2. Kết quả , hiệu quả của thực trạng trên Chương trình thay SGK được bộ GD- ĐT ban học sinhành năm 2002 là cơ sở pháp lý và SGK là tài liệu chính thức để dạy và học bộ môn , là sự cụ thể hoá những quy định của chương trình .SGK hỗ trợ hiệu quả cho việc đổi mới phương pháp dạy học nhằm tích cực hoá hoạt động học tập của học sinh theo học sinhướng chủ động học tập của học sinh theo học sinhướng chủ động , tự nhận thức , tự giải quyết Nếu giáo viên trongn quá trình dạy tiết luyện tập lại máy móc , cứng nhắc không quan tâm đến tính chất và yêu cầu cụ thể của từng tiết luyện tập , bao giờ cũng phải kiểm tra lý thuyết rồi mới cho ra bài tập đã được giao về nhà làm , không có các trò chơi giả trí , câu đố vui thì không thể phát triển tư duy , mặt bằng van hóa nói chung của học sinh không được nâng cao (ví dụ :không thể biết được “ Bình Ngô Đại Cáo ” của Nguyễn Trãi ra đời năm nào , nếu không cho học sinh làm bài 40 trang20 SGk...). Các bài tập mang tính phân hoá các bài tập nâng cao được bổ sung ở sách bài tập , đòi hỏi giáo viên phải đọc và lựa chọn cho phù học sinhợp . SGK mới rất quan tâm đến việc hướng dẫn học sinh sử dụng máy tính bỏ túi để làm các phép tính một cách nhanh chóng và thuận tiện . Nếu trong các tiết luyện tập giáo viên không quan tâm đên việc này thì học sinh sẽ không biết sử dụng thành thạo máy tính bỏ túi để tính Bên cạnh đó học sinh mất dần học sinhứng thú học toán ,máy móc trong việc phát hiện và giải quyết vấn đề nảy sinh trong bài tập ,học sinhạn chế khả năng sử dụng ngôn ngữ chính xác , các phẩm chất của tư duy linh hoạt , độc lập và sáng tạo không được phát triển . Dẫn đến học sinh học thói quen ỷ lại , không mạnh dạn trình bày ý tưởng của mình Vì vậy , rất cần một quá trình lao động sư phạm tích cực và sáng tạo của giáo viên ,nhằm nâng cao hiệu quả ,chất lượng các tiết luyện tập toán theo hướng đổi mới phương pháp dạy học 3. Từ thực trạng trên để công việc đạt được hiệu quả cao hơn tôi đã mạnh dạn cải tiến “Phương pháp dạy tiết luyện tập toán 6 theo SGK mới ”,Góp một phần vào thành công của việc thay sách và dạy cho học sinh troẻ thành những người chủ tương lai thực sự có đưcs , có tài của đất nước B. Giải quyết vấn đề I. Các giải pháp thực hiện Để thực hiện thành công một tiêt luyện tập toán theo SGK mới , giáo viên cần phải ; - Tham gia học chuyên đề thay sách giáo khoa lớp 6và lớp 7 môn toán -Thường xuyên tham giâ dự giờ đồng nghiệp dạy dùng bộ môn -Tham gia dạy trực tiếp môntoán 6,7 theo SGK mới -Tham khảo các tài liệu , tạp chí viết về đổi mới phương pháp dạy học để học hỏi kinh nghiệm như: “thiết kế bài giảng ”, “sách giáo viên” , “sách bài tập”, “tạp chí giáo dục ” Trong quá trình tìm tòi nghiên cứu ,tôi nhận thấy để đem lại hiệu quả, phát triển tư duy của học sinh ở một tiết luyện tập toán, giáo viên cần phải quan tâm đến các vấn đề sau: Tích cực hoá hoạt động tự luyện tập của học sinh từ khâu chuẩn bị ở nhà Khi luyện tập cho học sinh áp dụng thành thạo một quy tắc , công thức nào đó cần lựa chọn một số bài tập có cách giải quyết riêng , đơn giản hơn là áp dụng quy tắc tổng quát đã học Khuyến khích học sinh tìm nhiều lời giải khác nhau của một bài toán Quan tâm rèn luyện cho học sinh khả năng chuyển dễ dàng nhanh chóng từ tư duy thuận sang tư duy nghịch để học sinh nắm vững hơn nội dung kiến thức đã học Tổ chức trò chơi giữa các tổ , nhóm học tập bằng nhiều học sinhình thưc phong phú , góp phần tăng học sinhứng thú học toán Chú trọng rèn luyện kỹ năng sử dụng máy tính bỏ túi ở học sinh để giảm nhẹ những khâu tính toán không cần thiết Việc chuẩn bị dạy một tiết luyện tập toán cần bám sát tư tưởng chủ đạo là hoàn thiện ở mức độ cho phép học sinh hệ thống kiến thức , rèn luyện kỹ năng , thuật toán , rèn luyện nền nếp học SGK toán mới rất chú trong xây dựng học sinhệ thống câu hỏi , bài tập để luyện tập và thực hành , để đảm bảo tỷ lệ giữa lý thuyết và thực hành (khoảng 40% thời lượng dành cho ký thuyết , 60 % thời lượng dành cho luyện tập , thực hành và giải toán ). Có những bài luyện tập kỹ năng tính toán , kỹ năng suy luận , kỹ năng vẽ hình , kỹ năng vận dụng vào đời sống . Vì vậy , đòi hỏi giáo viên khi dạy tiết luyện tập toántheo SGK mới cần nắm vững: + Mục tiêu cuẩ tiết luyện tập toán là : - Hoàn thiện, nâng cao (ở mức độ cho phép của chương trình ) lý thuyết qua học sinhệ thống bài tập - Rèn luyện kỹ năng , thuật toán , nguyên tắc giải toán (tuỳ từng bài cụ thể) - Rèn luyện nền nếp học tập có tính khoa học , rèn luyện các thao tác tư duy , phương pháp học tập chủ động tích cực , sáng tạo + Phương pháp dạy tiết luyện tập toán Phương án 1: Bước 1: Nhắc lại một cách có học sinhệ thống các nội dung lý thuyết đã học , sau đó có thể mở rộng phần lý thuyết ở mức độ phổ thông cho phép , thông qua phần kiểm tra miệng ở đầu tiết Bước 2: Cho học sinh trình bày lời giải một vài bài tập đã làm ở nhà mà giáo viên quy đinhj , nhằm kiểm tra sự vận dụng lý thuyết trong việc giải toán của học sinh , kiểm tra kỹ năng tính toán , cách diễn đạt bằng lời và cách trình bày lời giải bài toán của học sinh . Giáo viên chốt lại những vấn đề có toính chất giáo dục (phân tích cách là đúng, sai ở từng bài , nêu ra cách giải thông minh , ngắn gọn ) Bước 3: Cho học sinh làm một vài bài tập mới theo chủ định của giáo viên , nhằm kiểm tra ngay sự hiểu biết của học sinh hoặc rèn luyênj một kỹ năng , một thuật toán nào đó Phương án 2 Bước1: Cho học sinh trình bầy lời giải một số bài tập cũ mà học sinh đã được chuẩn bị ở nhà để kiểm tra học sinh hiểu lý thuyết đến đâu? , kỹ năng vận dụng lý thuyết trong việc giải cac bài toán như thế nào ? . học sinh thường mắc sai sót ở đâu ? Bước 2: Sau khi nắm được các thông tin qua bước 1 giáo viên cần phải chốt lại các vấn đề có tính chất trọng tâm: Nhắc lại một số vấn đề lý thuyết mà học sinh chưa hiểu hoặc chưa hiểu sâu , không vận dụng tốt vào việc giải toán Chỉ ra các sai sót của học sinh thường mắc phải và phương hướng khắc phục các sai sót Hướng dẫn học sinh cách trình bầy , diễn đạt lời nói bằng ngôn ngữ toán học Bước 3: Cho học sinh làm một số bài tập mới , nhằm kiểm tra ngay sự hiểu biết của học sinh về lý thuyết hoặc rèn luyện một số kỹ năng , thuật toán nào đó mà giáo viên vừa bổ sung ở phần trên Việc lựa chọ phương án nào , tuỳ thuộc vào tính chất và yêu Cầu cụ thể của tiết luyện tập ,giáo viên khong nên cứng nhắc là phải kiểm tra lya thuyết rồi mới cho làm bài tập II. Các biện pháp thực hiện: 1. Trình bày tổng quan về vấn đề nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu a, Tích cực hoá hoạt động tự luyện tập của học sinh từ khâu chuẩn bị ở nhà Khối lượng kiến thức , kỹ năng sau một tiết lý thuyết không phải là nhiều , song nếu học sinh khong coi trọng việc học và làm bài tập vầ nhà sẽ dẫn đến lúng túng khi lên bảng chữa bài , hoặc không hiểu nội dung mà giáo viên đưa ra , nhận xét không chính xác bài làm của bạn . Do đó , giáo viên mất nhiều thời gian khi tiến hành bước 1, bài giảng đã được chuẩn bị sẽ tiến hành không như ý định đặt ra Ví dụ: Tiết 21- “luyện tập ” (sau tiết 20 – “Tia phân giác của góc”- toán 6) Với mục tiêu : - Khắc sâu kiến thức về tia phân giác của một góc - Rèn kỹ năng giải bài tập về tính góc , áp dụng tính chất về tia phân giác của một góc để làm bài tập . - Vẽ học sinhình cẩn thận , chính xác Giáo viên tiến hành bước 1 như sau : Ra bài tập kiểm tra bài cũ : + Vẽ góc xOy = 1800 + Vẽ tia phân giác Ot của góc xOy ... ung kiến thức đã được học ở tiết trước SGK toán mới rất quan tâm đến vấn đề này do đó giáo viên cần chú ý chọn các bài tập theo hướng đấy Ví dụ : Tiết 24- “luyện tập ” (sau bài “dấu hiệu chia hết cho 3, cho 9”)- Toán 6 Giáo viên yêu Cầu học sinh làm bài tập Bài 104 (trang 42 SGK): Điền chữ số vào dấu * để : a, chia hết cho 3 b, chia hết cho 9 Mục đích: Biết một số chai hết cho 3, cho 9 thì tổng các chữ số của nó phải chia hết cho 3, cho 9 Nếu nắm được điều nay thì học sinh sẽ dễ dàng tìm được a, * = 2; 5; 8 b, * = 0; 9 Bài 105 (trang 42 SGK): Dùng ba trong bốn chữ số 4; 5; 3; 0 ghép thành các số có ba chữ số sao cho các số đó a. Chia hết cho 9 b. Chia hết cho 3 mà không chia hết cho 99 Bài tập này đòi hỏi học sinh phải cộng tổng ba chữ số trong bốn số 4; 5; 3; 0 nếu tổng nào chia hết cho 9 thì lập được số chia hết cho 9 Học sinh tìm được đáp số : a.450; 540; 405; 504; b. 453; 435; 345; 354; 543; 534 Ví dụ 2: Tiết 65 – “luyện tập ” (sau tiết 64 : “Tính chất của phép nhân ”- toán 6) Giáo viên yêu cầu học sinh làm bài tập 99 (Trang 96 SGK): áp dụng tính chất : a(b – c) = ab – ac , Điền số thích hợp vào ô trống : a. . (-13) + 8 . (-13) = ( -7 + 8) . (-13) = b. (-5). (-4 - ) = (-5). (-4) – (-5) . (-14) = Mục đích : Sử dụng tính chất: a(b – c) = ab – ac, biết nếu có ab – ac thì có thể viết thành: a(b – c). Suy luận như vậy nhanh chóng tìm ra kết quả : a. (-7) ; (- 18) b. (-14) ; (-50) e. Xen vào các tiết luyện tập sau kh chữa bài tập giáo viên nên tổ chức các trò chơi giữa các nhóm học tập bằng nhiều hình thức phong phú , góp phần tăng thêm tình thần đoàn kết giữa học sinh trong lớp , giảm tính chất căng thẳng của tiết học toán . Thông qua các bài tập “đố” , “thi ghép chữ” , “thi tính nhanh” học sinh lĩnh hội kiến thức nhanh hơn , và nhớ kiến thức lâu hơn Ví dụ : Tiết 80 “luyện tập ” ( sau tiết 79 – “phép công phân số ” )- toán 6 Giáo viên tổ chức “trò chơi tính nhanh ”( bài 62 b SBT) Hoàn chỉnh bảng sau : (đề ghi trên hai bảng phụ ) -1 -1 12 Tiến hành cho một đội namvà một đội nữ chơi . Mỗi đội cử 5 bạn , mỗi bạn được quyền điền kết quả vào một ô rồi chuyền phấn cho bạn tiếp theo . Thời gian chơi trong 3 phút Kết thúc giáo viên cho cả lớp nhận xét và thưởng cho đội thắng cuộc Ví dụ 2: Tiết 82 - “luyện tập ” ( Sau tiết 82 : “Tính chất cơ bản của phép cộng phân số ) Giáo viên có thể cho học sinh tiến hành làm phiếu hoc tập theo nhóm (bài tập 55 trang 30 SGK) + Luật chơi : Mỗi ô điền đúng được một điểm , kết quả chưa rút gọc trừ 0,5 điểm . Nhóm nào phát hiện được những kết quả giống nhau điền nhanh sẽ được thưởng 2 điểm . Thời gian là 5 phút . Giáo viên ken thưởng đội thắng cuộc Ví dụ 3: Tiết 16 “luyện tập ” ( Sau tiết 15 “ Thứ tự thực hiện các phép tính” – toán 6 ) Giáo viên ra câu đố (bài tập 82 SGK ): Cộng đồng các dân tộc Việt Nam có bao nhiêu dân tộc ? Có thể học sinh đưa ra nhiều ý kiến , để biết kết quẩ chính xác học sinh tiến hành tính giá trị của biểu thức 34 – 33, kết quẩ chính là câu trả lời (54 dân tộc ) Tuy nhiên , việc tiến hành tổ chức các trò chổitng giờ học đòi hỏi giáo viên phải linh hoạt ,điều khiển tốt , nếu không tiết học trở thành lộn xộn, học sinh có thể cãi nhau , giáo viênây ảnh hưởng đến các lớp xung quanh . g. Chú trọng rèn luyện kỹ năng sử dụng MTBT ở học sinh , để giảm nhẹ những khâu tính toán không cần thiết Thời đại hiện nay là thời đại cuẩ tin học , mọi thông tin cần thiết đều được truy cập hàng ngày trên mạng Internet. Để có thể đáp ứng được và theo kịp xu thế đó , bản thân mỗi học sinh cần được trang bị khả năng sử dụng MTBT thành thạo , để có thể thực hiện các phép tính : cộng , trừ, nhân, chia , luỹ thừa , trên các tập số ; tính giá trị các biểu thức .học sinh biết sử dụng các phím nhớ , lưu ở đây học sinh có thể sử dụng MTBT Casio FX- 500a, Casio FX-220 Ví dụ : Tiết 16 “luyện tập ” (Sau tiết 15 “Thứ tự thực hiện các phép tính ”- toán 6) M+ Giáo viên hướng dẫn học sinh sử dụng MTBT thông qua bài tập 81 SGK M- - Để thêm số vào nội dung bộ nhớ , ta ấn nút : - Để bớt số vào nội dung bộ nhớ , ta ấn nút MR - Để gọi lại nội dung ghi trong bộ nhớ , ta ấn nút Biểu thức Nút ấn Kết quả 8 (8 – 2). 3 3 = 2 x - 18 3. (8 – 2 ) Thực hiện như dòng trên 2 . 6 + 3 . 5 M++ MR 3 x 5 M++ 6 x 2 27 M-+ M++ Chú ý : Khi sử dụng các nút trên màn hình xuất hiện MR chữ M. Sau khi đã sử dụng nút để tìm kết quả của phép tính ,muốn OFF chuyển sang phép tính mới , để xoá chữ M đó, ta ấn nút Dùng máy tính bỏ túi để tính (274 + 318) . 6 ; 34 . 29 + 14 . 35; 49 . 62 – 32 . 51 Nếu giáo viên trong tiết luyện tập dùng MTBT hướng dẫn học sinh chức năng của các nút bấm trên và thực hành mẫu thì học sinh sẽ tính các biểu thức trên một cách dễ dàng , không mất nhiều thời gian . Bên cạnh đó giáo viên có thể gọi một học sinh tính kết quả thứ nhất bằng cách tự cộng và nhân bằng bút, một học sinh khác tính bằng máy tính bỏ túi để học sinh thấy được công dụng của việc tính khi sử dụng máy tính bỏ túi . Giáo viên cũng cần nhắc nhở học sinh không nên quá lạm dụng máy tính bỏ túi vào tính toán , ảnh hưởng đến khả năng tính nhẩm , tính nhanh của các em , ỷ lại máy tính không học các quy tắc , công thức để tính . h. Việc chuẩn bị dạy tiết luyện tập , điều quan trọng là phải bám sát tư tưởng nhủ đạo là hoàn thiện hệ thống kiến thức (ở mức độ cho phép ), rend luyện kỹ năng , thuật toán , rèn luyện nền nếp học tập. Để đảm bảo phát huy tối đa hoạt động của giáo viên và học sinh ; Tránh sự đơn điệu thụ động như các tiết luyện tập toán trước đây . Giáo viên cần tìm tòi , thiết kế hệ thống các câu hỏi , kèm theo bài tập để kiểm tra nhận thức của học sinh , tạo tình huống mới về kiến thức đã học , kích thích hứng thú học tập của học sinh Hệ thống các câu hỏi , bài tập đó gắn với các biện pháp kỹ thuật của người giáo viên làm cho tiết học sinh động hơn, làm cho học sinh nắm kiến thức sâu sắc hơn Ví dụ dạy tiết 87 “luyện tập ” – toán 6 (Sau tiết 86 “Tính chất cơ bản của phép nhân phân số ”) Mục tiêu của tiết này là : Kiến thức: - Củng cố và khắc sâu phép nhân phân số, các tính chất cơ bản cuẩ phép nhân phân số Kỹ năng : - Vận dụng linh học sinhạt các kiến thức đã học về phép nhân phân số và các tính chất cơ bản của phép nhân phân số để giải toán Thái độ: - Giáo dục sự yêu thích môn toán , học tập gương nhà toán học Việt Nam Vì vậy , giáo viên có thể tiến hành theo trình tự sau: Bước 1: - Giáo viên yêu Cầu học sinh làm bài tập giao về nhà để kiểm tra sự vận dụng lý thuyết vào làm bài tập của học sinh (bài 75, 76 SGK) Bài 75 (Đề bài ghi trên bảng phụ) và cho học sinh lên điền vào ô trống x (Học sinh điền được : ; ; ; ) - HS3 lên bảng điền vào 3 ô ở hàng ngang thứ hai: Giáo viên từ kết quả của 3 ô ở hàng ngang thứ hai tâ điền được ngay các ô nào ? vì sao? Học sinh điền được ngay ba ô ở cột thứ hai, do áp dụng tính chất giao hoán của phép nhân . Giáo viên: nêu tính chất giao hoán Bước 2: Nắm được sự tiếp thu kiến thức cảu học sinh thông qua bước 1, giáo viên chốt lại các vấn đề sau - Với mỗi bài tập , có thể có nhiều cách giải khác nhau . vì vậy cần quan sát kỹ các phân số (trong bảng hay biểu thức có quan hệ với nhau như thế nào ) rồi suy nghĩ , tính nhẩm sẽ tìm được cách giải hợp lý nhất . do đó , trong học tập cũng như trong cuộc sống, ta luôn tìm cách giải quyết công việc một cách hợp lý . Bước 3: Giáo viên tiến hành cho học sinh làm một số bài tập mới để rèn luyện tính thông minh Bài tập: Tính giá trị của biểu thức sau (bằng hai cách ) A = 24 . ( Giáo viên : Bài tập có mấy cách làm ? em chọn cách nào? vì sao? Học sinh : có hai cách làm : Cách 1: Thực hiện phép tính trong ngoặc trước , ngoài ngoặc sau Cách 2: Sử dụng tính chấp phân phối của phép nhân đối với phép cộng Giáo viên : Ta thấy 24 là bội chung của 6 và 8, khi đó nếu sử dụng tính chất phân phối của phép nhân đối với phép cộng để tính thì bài toán trở nên đơn giản hơn Giáo viên tổ chức “ trò chơi thi ghép chữ ” (bài 79 SGK ) Giáo viên yêu Cầu học sinh họạt động nhóm thể hiện đầy đủ kết qua phép tính và ghép chữ học sinhàn chỉnh vào các ô trống Giáo viên giới thiệu sơ lược về nhà toán học : Lương Thế Vinh Trong sách bài tập toán 6 , còn có rất nhiều bài tập để phát hiện học sinh kha giỏi . ở tiết luyện tập này nếu có thời gian giáo viên có thể giao bài 94 trang 19 SBT Tóm lại , Khi dạy tiét luyện tập toán , giáo viên cần phải lưu ý : Suy nghĩ tìm cách giải , tìm những cách giải khác nhau (nếu có ) và chọ cách hay nhất để giải và từ đó hướng dẫn học sinh làm theo . Trên cơ sở thiết kế hệ thống câu hỏi khai thác bài toán , tổng quát hoá , tương tự và mở rộng bài toán . Đồng thời , giáo viên cần phải quan tâm sửa chữa các sai sót học sinh thường gặp như : Vẽ hình thiếu chính xác, lập luận chứng minh không chặt chẽ trong hình học ; nhầm lẫn trong việc sử dụng các phép toán , áp dụng nhầm lẫn các quy tắc toán học C , Kết luận I. Kết quả nghiên cứu tính hiệu quả so với cách làm cũ : Sau 4 năm học , tién hành dạy theo chương trình dạy theo SGK mới . bản thân là giáo viên toán được tham gia học chuyên đề thay sách và được trực tiếp dạy toán 6, tôi đã tìm tòi học hỏi và vận dụng phương pháp nêu trên vào quá trình giảng dạy bước đầu mang lại hiệu quả rõ rệt . Qua kiểm tra đánh giá học sinh lớp 6 ở 3 mức độ: Nhận biết, thông hiểu , vận dụng. Tôi đã thấy được chất lượng học sinh đang có sự chuyển biến , các em dần dần làm quen được cách làm mới , giờ học sôi nổi hơn . cụ thể Qua thăm dò ý kiến của học sinh thì tiết học toán – luyện tập có áp dụng phương pháp trên thì học sinh rất thích , hăng say phát biẻu ý kiến. Còn tiết luyện tập theo hướng cũ học sinh không mấy hứng thú , giờ học buồn tẻ dẫ đến học sinh ngại học toán II. Kiến nghị đề xuất ; Do trình độ của giáo viên không đồng đều , phương pháp dạy học cũ đã ăn sâu vào nhiều giáo viên nên quá trình thay đổi phương pháp còn nhiều bất cập , đa số giáo viên không có nhiều tài kiệu tham khảo hướng dẫn cách dạy theo phương pháp mới nên vận dụng còn nghèo nàn , đơn điệu, học sinh lớp 6 do tính chất phổ cập ở tiểu học nên trình độ còn yếu , khi tiếp cận với phương pháp mới nhiều em còn bỡ ngỡ , không biết học như thế nào . Giờ học , nhất là tiết “luyện tập ”cần nhiều bảng phụ dạy theo mẫu thì sử dụng máy chiếu . giấy trong các thiết bị này ở trường tôi chưa có , nên tiết dạy nhiều thời gian. Nên tôi kiến nghị nhà trường bổ xung đầy đủ Ngày 1 tháng 3 năm 2006 Người viết Lê Hữu Quý
Tài liệu đính kèm: