Sáng kiến kinh nghiệm - Hướng dẫn học sinh lớp 5 giải toán chuyển động đều có hiệu quả

Sáng kiến kinh nghiệm - Hướng dẫn học sinh lớp 5 giải toán chuyển động đều có hiệu quả

 I. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu

 1.1Thực trạng việc dạy và học toán chuyển động đều ở trường TH Tụ Hiệu:

Tôi đã tiến hành khảo sát trên một số lớp 5 ở trường Tiểu học Tụ Hiệu . Nội dung và kết qủa như sau:

a) Đối với giáo viên:

Tôi đưa ra một số câu hỏi đối với giáo viên trực tiếp dạy lớp 5 và thu được kết quả như sau:

Câu hỏi 1: Cô (thầy) chia các bài toán chuyển động đều về những dạng nào ? Dựa vào đâu để chia như vậy ?

Trả lời: Chia làm 2 loại, loại đơn giản có 1 động tử chuyển động, loại nâng cao có 2 động tử hay nhiều động tử.

Câu hỏi 2: Khi giải bài toán chuyển động đều, học sinh thường mắc những sai lầm gì ?

Trả lời: Không biết cách trình bày lời giải, đôi khi tính toán sai, vận dụng công thức lẫn lộn, kỹ năng giải bài toán nâng cao yếu.

Câu hỏi 3: Để dạy tốt dạng toán về chuyển động đều, ta cần lưu ý gì về phương pháp ?

Trả lời: Phải tăng cường số lượng, chất lượng các bài tập; các bài tập đó phải có hệ thống, được phân loại rõ ràng. Phải nghiên cứu và cung cấp cho học sinh một số phương pháp giải thích hợp.

 

doc 24 trang Người đăng lananh572 Lượt xem 579Lượt tải 1 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm - Hướng dẫn học sinh lớp 5 giải toán chuyển động đều có hiệu quả", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A.PHẦN MỞ ĐẦU
I.Lớ do chọn đề tài :
 1.1Cơ sở lý luận:
 Giỏo dục được xem là quốc sỏch hàng đầu ở nước ta và giỏo dục cũng là một trong những ngành cú tầm quan trọng to lớn đối với đất nước ,đặc biệt là giai đoạn hiện nay. Nằm trong hệ thống giáo dục quốc dân, giáo dục Tiểu học là bậc học quan trọng ,là viờn gạch đặt nền múng đầu tiờn cho sự phỏt triển toàn diện của học sinh . Mỗi môn học ở Tiểu học đều góp phần vào việc hình thành và phát triển những cơ sở ban đầu, rất quan trọng của nhân cách con người Việt Nam.
Trong các môn học ở Tiểu học, môn Toán giữ một vị trí rất quan trọng. Môn Toán ở Tiểu học nhằm giúp học sinh:
 - Có những kiến thức cơ bản, nền tảng về toán học 
 - Hình thành những kĩ năng thực hành tính, đo lường, giải các bài toán có những ứng dụng thiết thực trong cuộc sống.
 - Góp phần bước đầu phát triển năng lực tư duy, khả năng suy luận hợp lý và diễn đạt đúng (nói và viết) cách phát hiện và cách giải quyết các vấn đề đơn giản, gần gũi trong cuộc sống; kích thích trí tưởng tượng; gây hứng thú học tập toán; góp phần bước đầu hình thành phương pháp học tập và làm việc có kế hoạch, khoa học, chủ động, linh hoạt, sáng tạo.
1.2 Cơ sở thực tiễn
Hiện nay có nhiều giải pháp đã và đang được nghiên cứu, áp dụng để góp phần thực hiện mục tiêu trên. Đổi mới phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh cũng là một trong những giải pháp được nhiều người quan tâm nhằm đưa các hình thức dạy học mới vào nhà trường. Để tích cực hoá hoạt động học tập của học sinh, môn Toán ở Tiểu học nói chung và lớp 5 nói riêng cần có một phương pháp dạy học cụ thể phù hợp với từng loại toán.
 Xét riêng về loại toán chuyển động đều ở lớp 5, ta thấy đây là loại toán khó, rất phức tạp, phong phú đa dạng và có rất nhiều kiến thức áp dụng vào thực tế cuộc sống. Bài toán chuyển động đều là bài toán có chứa ba đại lượng: Quãng đường(s), vận tốc(v), thời gian(t) liên hệ với nhau bởi quan hệ:
 S = v x t (Hoặc v = s : t hay t = s : v)
 Mặt khác việc hình thành, rèn luyện, củng cố các kỹ năng giải toán chuyển động đều gần như là chưa có nên các em không thể tránh khỏi những khó khăn sai lầm khi giải loại toán này. Vì thế rất cần phải có cỏch hướng dẫn cụ thể đề ra để dạy giải các bài toán chuyển động đều nhằm đáp ứng các nội dung bồi dưỡng nâng cao chất lượng giảng dạy của giáo viên, bồi dưỡng nâng cao khả năng tư duy linh hoạt và óc sáng tạo của học sinh.
Đã có những cuốn sách viết về loại toán chuyển động đều, song những cuốn sách này mới chỉ dừng lại ở mức độ hệ thống hoá các bài tập (chủ yếu là bài tập khó) cho nên sách mới chỉ được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho học sinh giỏi. Còn lại những tài liệu khác, toán chuyển động đều có được đề cập đến nhưng rất ít, chưa phân tích một phương pháp cụ thể nào trong việc dạy giải các bài toán chuyển động đều này. Trong thực tế rất nhiều học sinh ái ngại giải toán chuyển động đều và số lượng học sinh giải được toán chuyển động đều ( theo SGK ) là rất ít.Để khắc phục tình trạng này rõ ràng vai trò của giáo viên rất quan trọng.
Trước ý nghĩa lý luận và thực tiễn của vấn đề nêu trên mà tôi đã chọn đề tài sỏng kiến kinh nghiệm “ Hướng dẫn học sinh lớp 5 giải toỏn chuyển động đều cú hiệu quả”
 1.3 Mục đớch nghiờn cứu của đề tài:
 - Gúp phần đổi mới phương phỏp dạy học mụn Toỏn ở Tiểu học theo hướng phỏt huy tớnh tớch cực chủ động sỏng tạo của học sinh 
 - Nõng cao chất lượng bồi dưỡng và rốn luyện kỹ năng giải toỏn cho học sinh.Đồng thời làm cơ sở cho đồng nghiệp chia sẻ gúp ý đỏnh giỏ rỳt kinh nghiệm để vận dụng trực tiếp trong quỏ trỡnh giảng dạy nhằm nõng cao chất lượng giỏo dục trong nhà trường tiểu học.
 1.4 Nhiệm vụ đối tượng và phạm vi nghiờn cứu:
 a,Nhiệm vụ:
 Tỡm hiểu về cỏc dạng toỏn chuyển động đều của lớp 5.
 Hướng dẫn cho học sinh cú những cỏch để giải bài toỏn chuyển động đều.
 b,Đối tượng và phạm vi nghiờn cứu
 Đối tượng :Học sinh lớp 5A,5B trường Tiểu học Tụ Hiệu năm học 2009-2010; 2010-2011
 Phạm vi:Toỏn chuyển động lớp 5	
 1.5 Phương phỏp nghiờn cứu:
 a,Nghiờn cứu tài liệu:
 Đọc cỏc tài liệu cú liờn quan đến sỏng kiến như sỏch ,bỏo giỏo dục,tạp chớ ,cỏc trang web Toỏn tuổi thơ,giỳp em vui học toỏn.
 b,Nghiờn cứu thực tế:
 Dự giờ trao đổi ý kiến với đồng nghiệp về nội dung việc dạy và học toỏn chuyển động đều.
 Tổng kết rỳt kinh nghiệm trong quỏ trỡnh dạy học .
 Tổ chức tiến hành thực nghiệm sư phạm (Cho cỏc em làm bài để kiểm tra tớnh khả thi của sỏng kiến)
B. PHẦN NỘI DUNG
 I. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu
 1.1Thực trạng việc dạy và học toán chuyển động đều ở trường TH Tụ Hiệu:
Tôi đã tiến hành khảo sát trên một số lớp 5 ở trường Tiểu học Tụ Hiệu . Nội dung và kết qủa như sau:
a) Đối với giáo viên:
Tôi đưa ra một số câu hỏi đối với giáo viên trực tiếp dạy lớp 5 và thu được kết quả như sau: 
Câu hỏi 1: Cô (thầy) chia các bài toán chuyển động đều về những dạng nào ? Dựa vào đâu để chia như vậy ?
Trả lời: Chia làm 2 loại, loại đơn giản có 1 động tử chuyển động, loại nâng cao có 2 động tử hay nhiều động tử.
Câu hỏi 2: Khi giải bài toán chuyển động đều, học sinh thường mắc những sai lầm gì ? 
Trả lời: Không biết cách trình bày lời giải, đôi khi tính toán sai, vận dụng công thức lẫn lộn, kỹ năng giải bài toán nâng cao yếu.
Câu hỏi 3: Để dạy tốt dạng toán về chuyển động đều, ta cần lưu ý gì về phương pháp ?
Trả lời: Phải tăng cường số lượng, chất lượng các bài tập; các bài tập đó phải có hệ thống, được phân loại rõ ràng. Phải nghiên cứu và cung cấp cho học sinh một số phương pháp giải thích hợp.
b) Đối với học sinh:
 * Tìm hiểu chất lượng giải các bài toán chuyển động đều ở học sinh. 
Tôi đã tiến hành kiểm tra vở của học sinh lớp 5A (trường Tiểu học Tụ Hiệu).Việc kiểm tra vở học sinh được tiến hành sau khi các em học xong phần lý thuyết toán chuyển động đều và một số tiết luyện tập.
- Số lượng vở được kiểm tra: 16 quyển của 16 học sinh 
- Số lượng bài tập phải làm ở mỗi cuốn vở là 12 bài. Gồm: 
Bài 3 trang 140; bài 1, 4 trang 144, 145; bài 1,3 trang 145, 146; bài 1,2,3, trang 171, 172, (tiết luyện tập); bài 4,5 trang 177, 178 ; bài 1, 3 trang 179, 180. Kết quả như sau:
Số học sinh
Số vở thu
 Xếp loại
24
24
Giỏi
Khỏ
Trung bỡnh
Yếu
2
5
10
7
 Tuy nhiên các bài toán trên hầu hết là những bài toán đơn giản. Một số bài toán có tính chất nâng cao, học sinh cũn lỳng tỳng trong việc giải . Điều đó phản ánh phần nào toỏn chuyển động đều là một dạng toỏn khú với học sinh lớp 5.
 Kết quả khảo sỏt trờn cho thấy chất lượng về dạy giải toán chuyển động đều ở lớp 5A trường Tiểu học Tụ Hiệu đã đạt yêu cầu nhưng chưa cao lắm.
 Có một điều đáng chú ý là kết quả trên đây tuy đạt yêu cầu nhưng lại không đồng đều nhau. Có em làm đúng gần hết các bài tập, có em làm sai và sai rất nhiều. Từ thực trạng trên tôi thấy cần phải tìm ra các nguyên nhân dẫn đến những sai lầm của học sinh khi giải loại toán này để có phương pháp khắc phục.
* Nguyên nhân dẫn đến những sai lầm của học sinh trong quá trình giải bài toán về chuyển động đều.
- Là một bộ phận trong chương trình toán Tiểu học, dạng toán chuyển động đều là một dạng toỏn gần như mới mẻ và rất phức tạp với học sinh lớp 5. Các em thực sự làm quen trong thời gian rất ngắn (Học kỳ II lớp 5). Việc rèn luyện, hình thành, củng cố tư duy, kĩ năng giải toán của học sinh ở loại này gần như chưa có. Chính vì vậy học sinh không thể tránh khỏi những khó khăn, sai lầm. Qua thực tế giảng dạy và khảo sát học sinh ở một số lớp, tôi thấy sai lầm của học sinh khi giải toán chuyển động đều là do những nguyên nhân sau:
a) Sai lầm do học sinh không đọc kĩ đề bài, thiếu sự suy nghĩ cặn kẽ dữ kiện và điều kiện đưa ra trong bài toán.
Ví dụ: (Bài 3 trang 140 SGK)
Quãng đường AB dài 25 km. Trên đường đi từ A đến B, một người đi bộ 5Km rồi tiếp tục đi ô tô trong nửa giờ thì đến B. Tính vận tốc của ô tô. 
Có 8 học sinh lớp 5A đã giải như sau:
 Vận tốc của ôtô là:
 Đáp số: 50 km/h
Còn hầu hết học sinh làm đúng bài toán với lời giải như sau:
Quãng đường người đó đi bằng ô tô là: 25 - 5 = 20 (km) 
 Vận tốc của ô tô là:
 Đáp số: 40km/h
Cả 8 học sinh mắc sai lầm trên đều do các em chưa đọc kĩ đề bài, bỏ sót 1 dữ kiện quan trọng của bài toán "Người đó đi bộ 5 km rồi mới đi ô tô".
Trên đây chỉ là một trong những ví dụ học sinh mắc sai lầm loại này.
b)Khi giải bài toán học sinh còn nặng về trí nhớ máy móc, tư duy chưa linh hoạt.
Ví dụ: Bài 1trang 144 (SGK toán 5):
Quãng đường AB dài 180Km. Một ô tô đi từ A đến B với vận tốc 54Km/giờ, cùng lúc đó một xe máy di từ B đến Avới vận tốc 36Km/giờ. Hỏi kể từ lúc bắt đầu đi, sau mấy giờ ô tô gặp xe máy? 
Khi gặp bài toán trên học sinh rất lúng túng, không biết vận dụng công thức gì để tính. Tôi tiến hành kiểm tra trên lớp 5A chỉ có một số ít em làm được bài toán theo cách giải sau:
Cứ sau mỗi giờ ô tô và xe máy đi được số km là: 54 + 36 = 90 (km)
Thời gian để ô tô và xe máy gặp nhau là: 180 : 90 = 2 (giờ) 
 Đáp số: 2 giờ
Một số học sinh khác do quen cách tính chỉ có một động tử nên không viết được trọn vẹn lời giải. Một số học sinh lại do nhầm lẫn giữa chuyển động ngược chiều và chuyển động cùng chiều nên áp dụng sai công thức, dẫn đến giải sai bài toán.
c) Học sinh không nắm vững kiến thức cơ bản.
Ví dụ: Một xe máy đi từ A đến B hết 42 phút. Tính quãng đường AB, biết vận tốc của xe máy là 36 km/giờ.
Tôi tiến hành khảo sát trên lớp 5A đây là bài toán cơ bản nhưng có rất nhiều em giải sai một cách trầm trọng như sau:
Quãng đường AB là: 
 36 x 42 = 1512 (km)
 Đáp số : 1525 km
Với bài toán trên học sinh rất dễ lúng túng khi thấy đơn vị đo vận tốc của xe máy là km/giờ, mà thời gian xe máy đi hết quãng đường lại đo bằng đơn vị (phút). Nên trong quá trình giải các em đã không đổi đơn vị đo mà cứ để nguyên dữ kiện của bài toán như vậy lắp vào công thức s = v x t để tính.
Đây là một trong những sai lầm rất đặc trưng và phổ biến của học sinh khi giải các bài toán chuyển động đều do không nắm chắc được việc sử dụng đơn vị đo.
d) Vốn ngôn ngữ của học sinh còn nhiều hạn chế.
Ví dụ: Lúc 6 giờ một ôtô đi từ A đến B với vận tốc 50km/h. Lúc 7 giờ 30 phút một xe ôtô du lịch đi từ B đến A với vận tốc 65 km/h. Hỏi hai xe gặp nhau lúc mấy giờ ? Biết quãng đường AB là 420 km.
Khi tiến hành điều tra trên lớp 5A tôi thấy có 16 em đi đúng hướng giải, nhưng 
8 em trong đó có lời văn không khớp với phép tính giải. Hơn nữa bài toán hỏi lúc mấy giờ hai xe gặp nhau (tức là tìm thời điểm hai xe gặp nhau) học sinh không hiểu và chỉ tìm thời gian để hai xe gặp nhau.
1.2 Kết quả của thực trạng trên:
Sau đây là kết quả khảo sát lớp 5A n ... ớng, kiểm tra học sinh tự tóm tắt.
 v1 = 40 km/h 130 km v2 = 12 km/h 
 A B 
 + Gặp nhau sau . giờ ? 
 + Chỗ gặp cách A .... km ? 
- Cho học sinh diễn đạt bài toán thông qua tóm tắt (không nhìn đề mà nhìn vào tóm tắt, học sinh tự nêu bài toán theo sự hiểu biết và ngôn ngữ của mình)
- Lập kế hoạch giải bài toán:
+ Sau khi 2 xe gặp nhau, tức là cả 2 đã đi được quãng đường bao nhiêu ? (130 km) 
+ Để biết được 2 xe gặp nhau sau mấy giờ trước tiên ta cần biết gì ? (mỗi giờ cả 2 xe đi được bao nhiêu km (tức là tổng vận tốc của 2 xe))
+ Việc tính tổng vận tốc của 2 xe được thực hiện như thế nào ?
(40 + 12 = 52 (km/h)
Như vậy ta có bài toán: Cả 2 xe: đi 52 km hết 1 giờ
 đi 130 km hết  giờ ?
Đây là phép so sánh tỉ lệ thuận giữa thời gian và quãng đường.
+ Vậy việc tính thời gian 2 xe gặp nhau được thực hiện như thế nào ?
 (130 : 52 = 2,5 (giờ))
+ Khoảng cách từ chỗ gặp nhau đến A được tính như thế nào ? 
(40 x 2,5 = 100 (km))
- Trình bày lời giải:
Mỗi giờ cả 2 xe đi được là: 40 + 12 = 52 (km) 
(hoặc: tổng vận tốc của 2 xe là: 40 + 12 = 52 (km/h)) 
Thời gian để 2 xe gặp nhau là: 130 : 52 = 2,5 (giờ)
 Chỗ gặp nhau cách A là: 40 x 2,5 = 100 (km)
Đáp số: 2,5 giờ
 100 km
* Khái quát hoá cách giải:giáo viên tổ chức, hướng dẫn để học sinh nêu lên được công thức chung để giải bài toán (đã nêu ở mục II, dạng 2 - bài toán 1)
* Đề xuất bài toán mới:
Lúc 6 giờ sáng, một người đi xe đạp xuất phát từ A đến B với vận tốc 15 km/h. 
Đến 8 giờ một người đi từ B đến A với vận tốc 18km/h. Hỏi hai người gặp nhau lúc mấy giờ ? Biết quãng đường AB dài 129 km.
Ví dụ 2:Lúc 6 giờ sáng một người đi xe máy lên tỉnh họp với vận tốc 40 km/h. Đến 7 giờ một người đi ô tô đuổi theo với vận tốc 60 km/h. Tìm thời điểm để hai người gặp nhau.
* Dự kiến khó khăn sai lầm:
- Học sinh không tính được quãng đường xe máy đi được khi xe ô tô xuất phát.
- Học sinh nhầm lẫn giữa thời gian và thời điểm 
- Không vận dụng chính xác công thức: t = s : (v2 - v1) ; (v2 > v1)
- Câu lời giải không khớp với phép tính giải.
* Tổ chức học sinh tìm hiểu nội dung bài toán.
- Đọc bài toán, nêu cách hiểu về thuật ngữ "Thời điểm"
- Nắm bắt nội dung bài toán
+ Bài toán cho biết cái gì ? (đi cùng chiều, đuổi nhau, v1 = 40 km/h, v2 = 60 km/h, xe máy xuất phát lúc 6 giờ, ô xuất phát lúc 7 giờ)
+ Bài toán yêu cầu phải tìm cái gì ? (thời điểm 2 người gặp nhau)
- Xác định dạng của bài toán: Đây là bài toán đuổi nhau, không cùng lúc, tìm thời điểm gặp nhau). Có thể chuyển về bài toán đuổi nhau coi là cùng lúc với người đi ô tô.
* Tìm cách giải bài toán.
- Tóm tắt bài toán:
 40 km/h, lúc 6 giờ
 60 km/h, lúc 7 giờ Gặp nhau lúc ... giờ ?
 - Cho học sinh diễn đạt bài toán qua tóm tắt (không nhìn đề mà nhìn vào tóm tắt)
 - Lập cỏc bước giải bài toán. 
 + Muốn biết được lúc nào hai xe gặp nhau (thời điểm gặp nhau) ta phải làm gì ? (phải tính được khoảng thời gian cần thiết để đuổi kịp nhau)
 + Muốn tính được thời gian đi để hai người đuổi kịp nhau, ta phải biết cái gì (khoảng cách giữa hai xe khi ô tô xuất phát)
Ngoài ra còn phải biết gì nữa ? (cứ mỗi giờ hai xe gần nhau thêm bao nhiêu km (tức hiệu vận tốc))
 + Khoảng cách giữa hai xe khi ôtô xuất phát được tính như thế nào?
 (40 x (7 - 6 ) = 40 (km)).
 + Hiệu vận tốc của 2 xe được tính như thế nào ? (60 - 40 = 20 (km/h))
 + Thời gian đi để hai xe gặp nhau được tính như thế nào?
 (40 : 20 = 2 (giờ) )
Làm thế nào để tính được thời gian hai xe gặp nhau?
 (7 + 2 = 9 (giờ))
- Trình bày lời giải
 Khoảng cách giữa hai người khi ôtô xuất phát là: 
 40 x (7 - 6 ) = 40 (km)
 Cứ mỗi giờ hai người gần nhau thêm là:
 60 - 40 = 20 (km)
 Thời gian đi để hai người gặp nhau là:
 40 : 20 = 2 (giờ)
 Thời điểm hai người gặp nhau là:
 7 + 2 = 9 (giờ)
Đáp số: 9 giờ
* Khái quát hoá cách giải: giáo viên tổ chức hướng dẫn để học sinh nêu lên được công thức chung để giải bài toán (Đã được nêu ở mục II, dạng 2 - bài toán 4)
* Đề xuất bài toán mới
.Một người đi xe đạp từ A với vận tốc 15 km/h. Đi được hai giờ thì một người đi xe 
máy bắt đầu đi từ A đuổi theo với vận tốc 35 km/h. Hỏi người đI xe máy đi trong bao lâu thì đuổi kịp người đi xe đạp ? Nơi gặp nhau cách A bao nhiêu km?
IV. Kết quả nghiờn cứu:
 Tôi đã tiến hành áp dụng dạy cho học sinh lớp 5B năm học 2010-2011 giải các bài toán chuyển động đều cú sự hướng dẫn học sinh và lấy kết quả đối chứng với lớp 5A năm học 2009-2010 (khi dạy loại toán này khụng áp dụng sỏng kiến kinh nghiệm .Bảng số liệu trang 8)
Sau khi học xong bài quãng đường, vận tốc thời gian và các tiết luyện tập. Tôi đưa ra đề kiểm tra gồm hai bài như sau:
Bài 1: Lúc 6 giờ một ôtô tải đi từ A đến B với vận tốc 50 km/h. Đến 7 giờ 30 phút có một xe ôtô du lịch cũng xuất phát từ A đến B với vận tốc 65 km/h. Hỏi xe du lịch đuổi kịp xe tải lúc mấy giờ ? Biết rằng trên đường đi không xe nào nghỉ.
Bài 2: Một ôtô và một xe đạp đi ngược chiều nhau. Ôtô đi từ A với vận tốc 42,5 km/h. Xe đạp đi từ B với vận tốc 11,5 km/h. Sau 2,5 giờ ôtô và xe đạp gặp nhau tại C. Hỏi quãng đường AB dài bao nhiêu km?
 Lớp
 Nguyên nhân sai lầm
5B
24 HS
48 bài
1. Chưa đọc kỹ đề bài thiếu suy nghĩ cặn kẽ về các dữ liệu và điều kiện bài toán 
2 bài
= 4,2%
2. Sai lầm do nặng về trí nhớ máy móc, tư duy chưa linh hoạt, khả năng tưởng tượng yếu.
4 bài
= 8,3%
3. Sai lầm do không nắm vững kiến thức cơ bản.
4 bài
= 8,3%
4. Sai lầm do ngôn ngữ còn nhiều hạn chế.
6 bài
= 12,5%
5. Những bài không mắc sai lầm.
32 bài
= 66,7%
Tổng số bài mắc sai lầm của cả lớp là 16/48 tỉ lệ 33,3 %
Kết quả trên cho thấy việc áp dụng sỏng kiến vào hướng dẫn cho học sinh giải các bài toán về chuyển động đều bước đầu cú hiệu quả. Trong quá trình làm bài học sinh ít mắc sai lầm hơn.
Học sinh tiếp thu đồng đều và sâu sắc hơn về bài toán. Số lượng điểm khá, giỏi chiếm tỉ lệ cao hơn.
Lớp
Số HS
Điểm
Yếu
TB
Khá
Giỏi
5B
24 HS
2 bài = 8,3%
8 bài = 33,3%
8 bài = 33,3%
6 bài = 
25 %
Điều này chứng tỏ rằng: nếu được sự quan tâm đúng mức, cùng với sự hướng dẫn chu đáo, hợp lý thì việc giải các bài toán chuyển động đều sẽ được hiệu quả cao hơn. Tuy nhiên với năng lực học sinh vựng khú khăn nờn còn nhiều hạn chế không ít em đứng trước nhiệm vụ giải toán còn cảm thấy bị quá sức,lỳng tỳng. Do đó kết quả thu được ở trên chỉ phản ánh thực tế khách quan ở mức độ nhất định. 
Như vậy việc hướng dẫn giải các bài toán về chuyển động đều cho học sinh lớp 5 là một giải pháp có tính hiệu quả cao. Nó có tác dụng giúp học sinh phát triển năng lực tư duy, rèn luyện phương pháp suy luận. Hơn nữa nó còn giúp các em tự phát hiện, giải quyết vấn đề, tự nhận xét, so sánh, phân tích, tổng hợp và từ đó áp dụng những kiến thức về toán chuyển động đều vào thực tế cuộc sống.
C.KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1.Túm lược giải phỏp
 Khi dạy giải bài toán chuyển động đều cho học sinh, chúng ta cần chú ý phõn loại cỏc dạng toỏn xem nú là dạng đơn giản hay là dạng phức tạp.Từ đú tổ chức cho học sinh giải bài toỏn cụ thể như sau:
 -Yêu cầu học sinh đọc kỹ đề toán để xác định được dạng bài và tìm ra hướng giải đúng là việc làm hết sức cần thiết đối với mỗi giáo viên.
- Khi dạy bài toán chuyển động đều, giáo viên nên tổ chức cho học sinh tóm tắt bài toán bằng sơ đồ đoạn thẳng.
- Khi dạy giải bài toán chuyển động đều, giáo viên cần hướng dẫn học sinh một cách tỉ mỉ để các em vận dụng công thức giải được chính xác, linh hoạt.
- Đối với những bài toán chuyển động đều phức tạp, cần hướng dẫn học sinh một số phương pháp (sơ đồ đoạn thẳng, suy luận) để đưa bài toán về dạng điển hình.
- Khi hướng dẫn giải các bài toán chuyển động đều, giáo viên cần khuyến khích, động viên học sinh giải bằng nhiều cách khác nhau (nếu có thể) và lựa chọn cách giải hay nhất.
 Khi hướng dẫn giải các bài toán chuyển động, giáo viên phải giúp học sinh phân biệt được "thời điểm" và "thời gian", giúp học sinh biết vận dụng mối tương quan tỉ lệ thuận và tương quan tỉ lệ nghịch giữa ba đại lượng: quãng đường, vận tốc, thời gian vào việc giải bài toán.
- Giáo viên cần phải chuẩn bị chu đáo, tỉ mỉ bởi đây là bài toán khó có nhiều bất ngờ trong lời giải; Chính vì vậy đứng trước một bài toán giáo viên cần làm tốt những công việc sau:
+ Xác định đúng yêu cầu bài toán và đưa bài toán về dạng cơ bản.
+ Tìm các cách giải khác nhau của bài toán.
+ Dự kiến những khó khăn sai lầm của học sinh
+ Tìm cách hướng dẫn học sinh tháo gỡ khó khăn và gợi ý để học sinh tìm được cách giải hay.
+ Hướng dẫn học sinh lập bài toán tương tự (hoặc bài toán ngược) với bài toán đã giải.
2.Phạm vi ỏp dụng
 Sỏng kiến này chỉ ỏp dụng ở những vựng khú khăn khi ấy học sinh cũn hạn chế về năng lực ngụn ngữ,cỏc loại sỏch tham khảo chưa nhiều để hỗ trợ cho cỏc em giải toỏn cú hiệu quả thỡ vai trũ người giỏo viờn rất quan trọng .
3.Kiến nghị :
 Toỏn chuyển động đều là dạng toỏn khú trong chương trỡnh lớp 5 vỡ vậy tụi muốn cỏc cấp lónh đạo quản lớ tạo điều kiện mua cỏc loại sỏch tham khảo bổ sung vào thư viện để giỏo viờn và học sinh cú cơ hội đọc và nghiờn cứu.
 Trong cỏc cuộc thi đồ dựng dạy học nờn khuyến khớch giỏo viờn làm những mụ hỡnh về dạng toỏn này để cỏc em cú hỡnh ảnh trực quang làm cho cỏch hướng dẫn của giỏo viờn sinh động đạt hiệu quả hơn.
 Tóm lại: Hướng dẫn giải bài toán chuyển động đều cho học sinh lớp 5 là giải pháp có tính khả thi và phù hợp với bản chất của hoạt động nhận thức của học sinh tiểu học . Tuy nhiên nó đòi hỏi người giáo viên phải chuyên tâm suy nghĩ , thiết kế những hoạt động của học sinh trên cơ sở lựa chọn và sử dụng các hình thức tổ chức dạy học một cách phù hợp với từng đối tượng học sinh
Tụ Hiệu, ngày thỏng năm 2011
 Người thực hiện
 Dương Đức Mút
MỤC LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU
 Trang
I . Lý do chọn đề tài 
 1.1Cơ sở lý luận	 1
 1.2Cơ sở thực tiễn	 1
 1.3Mục đớch nghiờn cứu của đề tài	 2
 1.4Nhiệm vụ ủoỏi tửụùng vaứ phaùm vi nghiờn cứu	 3
 1.5Phương phỏp nghiờn cứu	 3
B.PHẦN NỘI DUNG
I.Thực trạng của vấn đề nghiờn cứu
 1.1Thực trạng việc dạy học toỏn chuyển động đều của trường TH Tụ Hiệu.. 3-7
 1.2.Kết quả của thực trạng	 7-9
II.Giải phỏp thực hiện nhằm hướng dẫn học sinh lớp 5 giải cỏc dạng
 toỏn chuyển động đều cú hiệu quả.
 2.1Khõu giải toỏn	 9
 2.2Dự kiến khú khăn sai lầm	 9-10
 2.3Tổ chức cho học sinh thực hiện cỏc bước giải toỏn	 10-11
 2.4Rốn luyện kỹ năng khỏi quỏt húa	 11-12
III.Cỏch hướng dẫn học sinh lớp 5 giải cỏc bài toỏn chuyển động cú hiệu quả .
 3.1Dạng đơn giản	 11-13
 3.2Dạng phức tạp	 13-19
IV.Kết quả nghiờn cứu	 19-20
C. KIẾN NGHỊ VÀ ĐỀ XUẤT
1. Túm lược giải phỏp 	 20-21
2.Phạm vi ứng dụng	 20-21
3.Kiến nghị 	 21-22

Tài liệu đính kèm:

  • docsang kien kinh nghiem lop 5.doc