Giáo án Tự rèn luyện môn Văn 6 - Trường THCS Hoàng Hoa Thám

Giáo án Tự rèn luyện môn Văn 6 - Trường THCS Hoàng Hoa Thám

1. Khái niệm văn học dân gian.

- Văn học dân gian là một thành tố của văn hoá dân gian, tức là phôncơlo (trí tuệ nhân dân).

- Văn học dân gian còn gọi là văn học truyền miệng hoặc văn học bình dân.

- Văn học dân gian là những sáng tác tập thể truyền miệng của nhân dân, ra đời từ thời viễn cổ, phát triển qua các thời kì lịch sử, đến cả hiện nay và mai sau. Văn học dân gian có những đặc trưng riêng so với văn học viết; nó cùng với văn học viết hợp thành nền văn học dân tộc.

2. Các thể loại văn học dân gian.

 2.1. Thơ ca dân gian: tục ngữ, câu đố, ca dao, hò, vè, truyện thơ.

 2.2. Truyện dân gian: thần thoại, sử thi, truyền thuyết, cổ tích, truyện cười, truyện ngụ ngôn.

 2.3. Sân khấu dân gian: chèo, tuồng đồ.

3.Những đặc trưng cơ bản của văn học dân gian.

 3.1. Tính tập thể (trong sáng tạo, trong lưu truyền, trong sử dụng và cảm thụ.)

 3. 2. Tính truyền miệng.

 3.3. Gắn với sinh hoạt xã hội (đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân lao động.)

4. Giá trị và vai trò của văn học dân gian trong nền văn học dân tộc.

 4. 1. Văn học dân gian là kho báu về trí tuệ, tâm hồn và thẩm mĩ cao đẹp của nhân dân.

 4. 2. Văn học dân gian là ngọn nguồn, là cơ sở kết tinh của văn học dân tộc.

 

doc 4 trang Người đăng thu10 Lượt xem 593Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem tài liệu "Giáo án Tự rèn luyện môn Văn 6 - Trường THCS Hoàng Hoa Thám", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 THÁNG 8 + 9/2010
1. Khái niệm văn học dân gian.
- Văn học dân gian là một thành tố của văn hoá dân gian, tức là phôncơlo (trí tuệ nhân dân).
- Văn học dân gian còn gọi là văn học truyền miệng hoặc văn học bình dân.
- Văn học dân gian là những sáng tác tập thể truyền miệng của nhân dân, ra đời từ thời viễn cổ, phát triển qua các thời kì lịch sử, đến cả hiện nay và mai sau. Văn học dân gian có những đặc trưng riêng so với văn học viết; nó cùng với văn học viết hợp thành nền văn học dân tộc.
2. Các thể loại văn học dân gian.
 2.1. Thơ ca dân gian: tục ngữ, câu đố, ca dao, hò, vè, truyện thơ.
 2.2. Truyện dân gian: thần thoại, sử thi, truyền thuyết, cổ tích, truyện cười, truyện ngụ ngôn.
 2.3. Sân khấu dân gian: chèo, tuồng đồ.
3.Những đặc trưng cơ bản của văn học dân gian.
 3.1. Tính tập thể (trong sáng tạo, trong lưu truyền, trong sử dụng và cảm thụ...)
    3. 2. Tính truyền miệng.
    3.3. Gắn với sinh hoạt xã hội (đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân lao động...)
4. Giá trị và vai trò của văn học dân gian trong nền văn học dân tộc.
 4. 1. Văn học dân gian là kho báu về trí tuệ, tâm hồn và thẩm mĩ cao đẹp của nhân dân.
 4. 2. Văn học dân gian là ngọn nguồn, là cơ sở kết tinh của văn học dân tộc.
THÁNG 10 /2010
1. Một vài điều cần biết về chuyệh cổ tích.
 1. 1. Cổ tích là tích cũ, chuyện xa xưa, ra đời khi xã hội có áp bức, bóc lột. Cổ tích kể về những truyện mang yếu tố hoang đường, sự tích kì lạ về con người, hoặc thế giới muôn loài, chứa đựng triết lý nhân sinh sâu sắc.
 1. 2. Người ta chia truyện cổ tích thành 3 loại:
 - Truyện cổ tích loài vật (Quạ và Công; Con thỏ tinh khôn...)
 - Truyện cổ tích thần kỳ (Chử Đồng Tử, Cây khế)
 - Truyện cổ tích sinh hoạt (Chàng ngốc, Cái cân thuỷ tinh...)
 1. 3. Cuộc đấu tranh giữa thiện và ác, giàu và nghèo, thống trị và bị thống trị, chính nghĩa và phi nghĩa... Các bài học về ở hiền gặp lành, ác giả ác báo, tham thì thâm... rất dễ bắt gặp trong truyện cổ tích. Cổ tích nêu cao khát vọng về tự do và hạnh phúc, công bằng ở đời.
2. Một vài điều cần biết về tục ngữ.  
2.1. Hình thức của tục ngữ. 
 Trước khi nói đến hình thức tục ngữ, ta nên phân biệt mấy danh từ hay bị dùng lẫn lộn. 
 Tục ngữ (tục: thói quen có từ lâu đời; ngữ: lời nói) là những câu nói gọn ghẽ, có ý nghĩa, lưu hành từ xưa do cửa miệng người đời truyền lại. 
 Ngạn ngữ, cũng nghĩa như tục ngữ: vì chữ ngạn có nghĩa là lời nói người xưa truyền lại. 
 Phương ngôn, là những câu tục ngữ chỉ lưu hành trong một vùng chứ không thông dụng khắp nước. 
 Cách ngôn, là những câu tục ngữ có nghĩa cao xa. 
2.2. Thể cách và kết cấu.
 Thể cách và kết cấu của tục ngữ đơn sơ, mộc mạc chứ chưa được điêu luyện như ca dao. Thường được cấu tạo do ba phương pháp sau đây:
 a. Hội ý suy loại: Là đặt một câu cho có ý nghĩa còn lời chỉ cần xác đáng, gọn ghẽ:
Nước đổ lá khoai.
 “Đèn soi ngọn cỏ”.
 “Chó cắn áo rách.”
 b. Đối tự, đối ý: Cao hơn một nấc, cách cấu tạo thứ hai, tuy chưa để ý đến vần điệu, đã có nhiều cố gắng về hình thức: đặt câu phải có hai vế đối nhau, hoặc đối ý hoặc đối chữ. 
 “Giơ cao, đánh khẽ ”.
 “Giầu điếc, sang đui.”
 “No nên bụi, đói nên ma”.
 c. Thanh âm hưởng ứng: Vượt hẳn hai thể cách trên về mọi phương diện: ngoài việc đặt câu cho cân xứng, nhà văn còn phải chú trọng nhất đến âm luật, đặt cho trong một câu có nhiều tiếng vần với nhau. Vần trong tục ngữ thường là yêu vận chứ ít khi có cước vận. Cách gieo vần trong tục ngữ hết sức tự do. 
 Những câu một vế: chỉ có yêu vận và thường là hai tiếng tiếp liền nhau:
 “Tay làm hàm nhai.”
 Những câu có nhiều vế: vần có thể là chữ nhất câu dưới:
 “Khôn cho người ta dái
 Dại cho người ta thương.”
 Vần ở chữ nhì câu dưới:
 “Người giầu tham việc 
 Thất nghiệp tham ăn.”
 Vần ở chữ ba câu dưới:
 “Của người bồ tát
 Của mình lạt buộc.”
 Vần ở chữ tư câu dưới:
 “Sống về mồ mả
 Không sống về cả bát cơm.”
 Vần ở chữ năm câu dưới:
 “Biết thì thưa thốt
 Không biết thì dựa cột mà nghe.”
 Vần ở chữ sáu câu dưới:
 “Trông mặt mà bắt hình dong,
 Con lợn có béo thì lòng mới ngon.”
 Như thế, ta nhận thấy trừ lối gieo vần ở chữ sáu câu dưới, tức thể lục bát, còn ở các lối trên vẫn thường là vần trắc, họa hoằn mới có vần bằng. 
THÁNG 11 /2010
2.3. Nội dung của tục ngữ.
 Tục ngữ có thể gọi là cái túi khôn của người Việt Nam. Sự tinh khôn đây không phải là triết lý cao siêu, tư tưởng thâm trầm, huyền bí. Đây chỉ là những điều thường thức mà lương tâm dân chúng gom góp lại, như những luật luân lý thực hành, hoặc ghi nhớ những kinh nghiệm thực tế. Như vậy, ta nhận thấy nội dung của tục ngữ khác hẳn nội dung của câu đố, ca Huế, hay ca dao. Tục ngữ là con người lý trí của đất Việt. Câu đố, ca Huế hay ca dao là con người tình cảm huyết thống của dòng dõi Trương Chi, Chử Đồng Tử.
 Tục ngữ, vì thế thường diễn giải hai sự trạng luân lý và kinh nghiệm: 
* Luân lý thường thức.
 Nói đến luân lý, tức là nói đến bổn phẩn, đến sứ mạng phải chu toàn. Con người ở thời nào cũng thế, vẫn phải đầy đủ hai bổn phận: với chính mình và với người khác. 
 Với mình. Thu lại tất cả tục ngữ, ta sẽ có một cuốn luân lý rất đầy đủ về đạo tu thân: huấn luyện tình cảm, huấn luyện lý trí, huấn luyện xã hội
 Người ta sinh ra cần phải giáo dục: “Cá không ăn muối cá ươm, 
 Con cưỡng cha mẹ trăm đường con hư.” 
 Ăn uống phải cẩn thận đừng có bừa bãi: “Vạ bởi miệng ra, 
 Bệnh chẳng qua bởi miệng vào.”
 Quần áo phải sạch sẽ: “Đói cho sạch, 
 Rách cho thơm.”.
 Cư xử phải khôn ngoan: “Ăn cỗ đi trước,
 Lội nước đi sau.”.
 Đời sống phải trong sạch: “Sống đục sao bằng thác trong.”
 Với người ta, ngoài những bổn phận đối với bản thân, con người sống trong xã hội còn phải có những tư cách khả dĩ làm cho cuộc sống xã hội trở nên yên vui, hòa thuận. Tư cách xã hội nhiều khi còn là cách thế giúp ta thành công. 
 “Nói ngọt lọt đến xương, ”“Làm phúc như làm giàu.” 
* Kinh nghiệm thường thức
 Đây là những nhận xét thường thức về tâm lý, về phong tục người, về thời tiết, về nông nghiệp. 
 Tâm lý người đời: “Dao năng liếc thì sắc,
 Người năng chào thì quen.”
 Phong tục Việt Na: “Một miếng giữa làng
 Bằng một sàng xó bếp.”.
 Thời tiết: “Chớp đông nhay nháy
 Gà gáy thì mưa.”.
 Nông nghiệp: “Lúa giỗ, ngả mạ, 
 Vàng rạ thì mạ xuống được.”
 Đó là những câu ta được nghe cửa miệng người dân quê Việt Nam từ sáng chí tối trong lúc nhàn rỗi ngồi dạy dỗ con cái cũng như trong khi làm ăn lặn lội ngoài đồng. Đến cái túi khôn của dân tộc Việt, một cụ nho đã nói: “Các cụ đời xưa đặt ra tục ngữ, phương ngôn thật là đi guốc trong bụng chúng mình chứ không sai”. Lời đó cực tả cái giá trị của tục ngữ về đường tâm lý cũng như về đường phong tục. 

Tài liệu đính kèm:

  • docTU HOC TU REN HAY 2010.doc