Đề cương ôn tập Ngữ văn Lớp 6 - Học kỳ II - Nguyễn Phương Bắc

Đề cương ôn tập Ngữ văn Lớp 6 - Học kỳ II - Nguyễn Phương Bắc

6. Câu thơ nào dới đây đã sử dụng phép ẩn dụ ?

A- Bóng Bác cao lồng lộng B- Bác vẫn ngồi đinh ninh

C- Ngời Cha mái tóc bạc D- Chú cứ việc ngủ ngon

7. Bài thơ "Đêm nay Bác không ngủ" đã sử dụng ph ơng thức biểu đạt gì ?

A- Miêu tả B- Biểu cảm C- Tự sự D- Biểu cảm kết hợp với tự sự và miêu tả

8. Ba truyện: Bài học đờng đời đầu tiên; Bức tranh của em gái tôi; Buổi học cuối cùng có gì

giống nhau về ngôi kể và thứ tự kể ?

A.Ngôi kể thứ ba, thứ tự kể theo thời gian

 C.Ngôi kể thứ nhất, thứ tự kể sự việc

B.Ngôi kể thứ ba, nhân hoá

D.Ngôi kể thứ nhất, thứ tự kể theo thời gian và sự việc

9. Hình ảnh nào sau đây không phải là hình ảnh nhân hoá ?

A- Cây dừa sải tay bơi. B- Cỏ gà rung tai.

C- Kiến hành quân đầy đờng. D- Bố em đi cày về.

10. Cho câu văn sau: Mặt trời nhú lên dần dần, rồi lên cho kì hết.

Vị ngữ của câu trên đợc cấu tạo nh thế nào?

A.Cụm động từ B.Động từ C.Tính từ D.Cụm tính từ

11. Câu thơ: " Một tiếng chim kêu sáng cả rừng" thuộc kiểu ẩn dụ nào ?

A- ẩn dụ hình thức B- ẩn dụ cách thức

C- ẩn dụ phẩm chất D- ẩn dụ chuyển đổi cảm giác

 

pdf 3 trang Người đăng lananh572 Lượt xem 405Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem tài liệu "Đề cương ôn tập Ngữ văn Lớp 6 - Học kỳ II - Nguyễn Phương Bắc", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bài làm 
Chủ đề đỏnh giặc cứu nước, giành thắng lợi là chủ đề lớn, xuyờn suốt 
trong dũng văn học Việt Nam núi chung và văn học dõn gian Việt Nam núi 
riờng. Trong đú, truyền thuyết Thỏnh Giúng là truyện dõn gian thể hiện chủ 
đề này thật tiờu biểu và độc đỏo. Truyện kể vố ý thức và sức mạnh đỏnh giặc 
cú từ rất sớm của dõn tộc ta. Hỡnh tượng Thỏnh Giúng hiện lờn với nhiều chi 
tiết nghệ thuật hay và để lại trong em những ấn tượng sõu sắc. Khụng những 
thế, truyện Thỏnh Giúng cũn chứa đựng những chi tiết thật hoang đường, kỳ 
ảo. Ban đầu là mẹ của Thỏnh Giúng đi ra đồng, ướm thử chõn mỡnh vào một 
dấu chõn rất to lớn, rồi sau đú về nhà bà mang thai, mười hai thỏng sau sinh 
ra một cậu bộ. Cú ai lại mang thai tới mười hai thỏng bao giờ? Điều này 
cũng chớnh là dấu hiệu bỏo cho ta cú thể biết trước sự lạ lựng về chỳ bộ. Quả 
đỳng như vậy, chỳ bộ được sinh ra khụi ngụ, tuấn tỳ nhưng lại thay, lờn ba 
tuổi mà vẫn khụng biết đi, đứng, núi, cười, đặt đõu thỡ nằm đú. Thật khỏc 
hẳn với những em bộ bỡnh thường. Chỳ bộ này thật khỏc lạ khiến mọi người 
ai cũng cảm động và lo lắng cho chỳ. Nhưng khi cú giặc Ân kộo đến xõm 
phạm bờ cừi Văn Lang, chỳ bộ liền cất tiếng núi. Và tiếng núi đầu tiờn của 
chỳ bộ lờn ba là tiếng núi đũi đỏnh giặc. Chỳ bộ đó bật ra tiếng núi kịp thời, 
tiếng núi cất lờn khi nghe thấy tiếng rao của sứ giả đi tỡm người hiền tài cứu 
nước. Tiếng rao của sứ giả ở đõy chớnh là lời hiệu triệu của Vua Hựng, là 
tiếng gọi của non sụng đất nước khi Tổ Quốc lõm nguy. Chi tiết này làm em 
thật cảm động. Chỳ là người yờu quờ hương đất nước tha thiết. Lũng yờu quờ 
hương đất nước tha thiết đó giỳp chỳ bộ mới ba tuổi khụng núi, khụng cười 
lớn nhanh như thổi, vươn vai một cỏi bỗng trở thành một trỏng sĩ oai phong 
lẫm liệt với ý chớ quật cường cú thể dời non, lấp biển. Thỏnh Giúng là một 
biểu tượng của muụn người gộp sức, cựng nhau chống giặc ngoại xõm. 
Chỳ bộ Giúng đó cú mặt kịp thời khi đất nước lõm nguy đó dẹp tan quõn 
giặc. Ngựa phun ra lửa, roi sắt thần kỡ quật tan quõn thự. Khi roi gẫy thỡ nhổ 
tre đỏnh giặc. Thật sung sướng và tự hào biết bao khi Tổ Quốc ta cú được 
một vị anh hựng như Thỏnh Giúng. Ta càng tự hào hơn khi Thỏnh Giúng 
đỏnh giặc xong khụng hề đợi vua ban thưởng mà một mỡnh một ngựa từ từ 
bay lờn trời. Đõy là một chi tiết hoang đường, kỡ ảo nhưng lại cú ý nghĩa vụ 
cựng sõu sắc. Sự ra đi kỡ lạ của Thỏnh Giúng rất phự hợp với ý nguyện nhõn 
dõn, nờn nú cú một sức sống trường tồn trong lũng nhõn dõn như một nột 
đẹp rực rỡ, trong sỏng nhất của người anh hựng chống giặc. “Cả người lẫn 
ngựa từ từ bay lờn trời” – thật là kỡ ảo, nhưng thật nhẹ nhàng, ung dung. 
Người con yờu nước ấy đó hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đỏnh giặc cứu 
nước của mỡnh, và đó ra đi một cỏch vụ tư, thanh thản, khụng hề màng tới 
cụng danh địa vị cho riờng mỡnh. Áo giỏp sắt nhõn dõn làm cho để đỏnh 
giặc, khi đỏnh tan giặc rồi, trả lại cho dõn để bay về trời. Điều đú cho em 
thấy ở hỡnh tượng Thỏnh Giúng – trong con người của chàng chỉ cú yờu 
nước và cứu nước – tất cả đều cao đẹp, trong sỏng như gương, khụng một 
chỳt gợn nào. Phải chăng đú cũng chớnh là gương mặt của nhõn dõn ta được 
kết tinh trong người Thỏnh Giúng. í chớ phục vụ thật là vụ tư, lớn lao và 
gương mẫu. Cụng lao to lớn ấy đó được nhà vua phong làm Phự Đổng Thiờn 
Vương, nhõn dõn muụn đời ghi nhớ. Thỏnh Giúng đỏnh giặc đõu phải là đơn 
phương độc mó. Thử hỏi rằng nếu khụng cú cơm gạo của dõn làng, của 
nhà vua thỡ Thỏnh Giúng làm được những gỡ? Cụng lao của Thỏnh Giúng 
cũng cú một phần của nhõn dõn lao động gúp sức tạo lờn. Thỏnh Giúng 
chớnh là sự tượng trưng cho sự lớn mạnh của đất nước ta, dõn tộc ta. 
Khộp trang sỏch lại mà hỡnh tượng Thỏnh Giúng vẫn đọng mói trong tõm 
trớ em – một hỡnh tượng nghệ thuật dõn gian tuyệt đẹp, tràn đầy tư tưởng yờu 
nước, căm thự giặc và ý chớ quyết thắng. Quả là khụng cú hỡnh tượng nào 
sỏnh kịp. 

Tài liệu đính kèm:

  • pdfCAM NGHI VE NHAN VAT THANH GIONG.pdf