TƯ LIỆU VĂN HỌC
TÁC GIA VĂN HỌC VIỆT NAM
1-Lý Công Uẩn
(974-1028)
Lý Công Uẩn là người châu Cổ Pháp, lộ Bắc Giang. Ông sinh ngày 12 tháng 2 năm Giáp Tuất (tức ngày 8 tháng 3 năm 974) và mất ngày 3 tháng 3 năm Mậu Thìn (tức ngày 31 tháng 3 năm 1028), thọ 55 tuổị
Gốc gác còn nhiều nghi vấn; ta chỉ biết mẹ ông họ Phạm và từ năm ba tuổi ông đã làm con nuôi của sư Lý Khánh Văn.
Dưới thời Tiền Lê, ông làm đến Tả thân vệ điện tiền chỉ huy sứ. Năm 1009, Lê Ngọa Triều mất, ông được quần thần tôn lên làm vua, đổi niên hiệu là Thuận Thiên và dời đô từ Hoa Lư ra Đại La, nhân đó để lại áng văn Thiên Đô Chiếụ
Ông là người thông minh, nhân ái, có chí lớn, và rất hâm mộ Phật giáọ
2-Lý Thường Kiệt
(1019-1105)
Lý Thường Kiệt tên thật là Ngô Tuấn. Thường Kiệt là tự; sau này ông được ban quốc tính nên mới đổi tên thành Lý Thường Kiệt.
Theo tài liệu mới phát hiện (bài văn khắc trên chuông chuà Bắc Biên và cuốn Tây Hồ Chí) thì ông là người làng An Xá, huyện Quảng đức, thuộc khu vực phía nam hồ Tây trong thành Thăng Long.
Ông sinh năm 1019 và mất tháng Sáu năm Ất Dậu (tức từ 13 tháng Bảy đến 11 tháng Tám năm 1105).
Lý Thường Kiệt tinh thông thao lược, lại có tài thơ văn. Năm 23 tuổi, ông đã được bổ làm Hoàng môn chi hậu rồi thăng đến chức Thái úỵ Ông có công rất lớn trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước: phá Tống, bình Chiêm, dẹp tan phản loạn.
Tác phẩm còn lại gồm có bài Lộ Bố Văn phát ra cho nhân dân Trung Quốc ở các châu Ung Khâm Liêm nhân dịp chủ động đem quân sang đánh Tống năm 1075, lời tâu xin vua Lý Nhân Tông cho đi dẹp loạn Lý Giác năm 1103, và tiêu biểu nhất là bài thơ Nam Quốc Sơn Hà.
TƯ LIỆU VĂN HỌC TÁC GIA VĂN HỌC VIỆT NAM 1-Lý Công Uẩn (974-1028) Lý Công Uẩn là người châu Cổ Pháp, lộ Bắc Giang. Ông sinh ngày 12 tháng 2 năm Giáp Tuất (tức ngày 8 tháng 3 năm 974) và mất ngày 3 tháng 3 năm Mậu Thìn (tức ngày 31 tháng 3 năm 1028), thọ 55 tuổị Gốc gác còn nhiều nghi vấn; ta chỉ biết mẹ ông họ Phạm và từ năm ba tuổi ông đã làm con nuôi của sư Lý Khánh Văn. Dưới thời Tiền Lê, ông làm đến Tả thân vệ điện tiền chỉ huy sứ. Năm 1009, Lê Ngọa Triều mất, ông được quần thần tôn lên làm vua, đổi niên hiệu là Thuận Thiên và dời đô từ Hoa Lư ra Đại La, nhân đó để lại áng văn Thiên Đô Chiếụ< Ông là người thông minh, nhân ái, có chí lớn, và rất hâm mộ Phật giáọ 2-Lý Thường Kiệt (1019-1105) Lý Thường Kiệt tên thật là Ngô Tuấn. Thường Kiệt là tự; sau này ông được ban quốc tính nên mới đổi tên thành Lý Thường Kiệt. Theo tài liệu mới phát hiện (bài văn khắc trên chuông chuà Bắc Biên và cuốn Tây Hồ Chí) thì ông là người làng An Xá, huyện Quảng đức, thuộc khu vực phía nam hồ Tây trong thành Thăng Long. Ông sinh năm 1019 và mất tháng Sáu năm Ất Dậu (tức từ 13 tháng Bảy đến 11 tháng Tám năm 1105). Lý Thường Kiệt tinh thông thao lược, lại có tài thơ văn. Năm 23 tuổi, ông đã được bổ làm Hoàng môn chi hậu rồi thăng đến chức Thái úỵ Ông có công rất lớn trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước: phá Tống, bình Chiêm, dẹp tan phản loạn... Tác phẩm còn lại gồm có bài Lộ Bố Văn phát ra cho nhân dân Trung Quốc ở các châu Ung Khâm Liêm nhân dịp chủ động đem quân sang đánh Tống năm 1075, lời tâu xin vua Lý Nhân Tông cho đi dẹp loạn Lý Giác năm 1103, và tiêu biểu nhất là bài thơ Nam Quốc Sơn Hà. 3-Hải Thượng Lãn Ông Hải Thượng Lãn Ông là tên hiệu của Lê Hữu Trác, một nho gia và đanh y Việt Nam vào cuối đời Hậu Lệ Ông sinh năm 1721, người xã Liêu xá, huyện Đường Hào, trấn Hải Đương (nay thuộc phủ Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên). Ông thuộc đòng đõi một gia đình có nhiều đời đại đăng khoạ Cha và chú đều đỗ tiến sĩ và làm quan đến đại thần. Lúc còn trẻ, ông đã nổi tiếng hay chữ. Đến năm 20 tuổi, gặp buổi nhiễu nhương, chúa Trịnh Giang độc đoán, giặc giã nổi lên khắp nơi, ông quyết định xếp bút nghiên theo việc đao cung. Đang ở trong quân ngũ, ông phải về quê ngoại là huyện Hương Sơn (thuộc tỉnh Hà Tĩnh bây giờ) để thay người anh thứ năm phụng đưỡng mẹ già. Tại Hương Sơn, ông mắc phải một chứng bệnh đai đẳng, may nhờ một y sĩ họ Trần cứu chữạ Từ đó, ông quyết định rời bỏ quan lộ, đốc lòng nghiên cứu y học, trở thành một y sĩ có tiếng. Ông mở trường đạy y học và ra công trước tác một bộ sách y khoa đồ sộ : Hải Thượng Y Tông Tâm Lĩnh. Năm 1782, ông được quan Chính Đường (Huy Quận Công Hoàng Đình Bảo) tiến cử lên kinh đô chữa bệnh cho Thế Tử Trịnh Cán (con chúa Trịnh Sâm và Tuyên Phi -Đặng Thị Huệ). Tuy việc chữa bệnh không thành, ông đã phải ở kinh đô trong khoảng một năm. Cũng may là ông về nhà kịp trước khi xảy ra loạn Kiêu Binh, mở đầu một thời kỳ đại loạn trong lịch sử Việt Nam, kéo đài đến năm 1802 mới chấm đứt. Sau khi về, ông ghi lại những điều mắt thấy tai nghe tại kinh đô trong cuốn tùy bút "Thượng Kinh Ký Sự". Sách này thường được in trong phần phụ lục của Y Tông Tâm Lĩnh. Ông mất năm 1791. 4-Hồ Xuân Hương Hồ Xuân Hương tên thật là Hồ Phi Mai, là con của Hồ Sĩ Danh (1706-1783), quê ở làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An, và một người thiếp quê ở Hải Dương. Năm sinh, năm mất, thân thế, cuộc đời, và thơ văn của bà đến nay vẫn còn vướng mắc nhiều nghi vấn. Ta chỉ biết bà sống vào thời Lê mạt Nguyễn sơ, người cùng thời với Nguyễn Du (1765-1820), Phạm Đình Hổ (tức Chiêu Hổ, 1768-1839). Hồ Xuân Hương học rộng, đọc sách nhiều, uyên thâm cả Nho, Phật, Lãọ Nàng có tài ứng đối, dùng điển tích rất tài tình, Hiệp Trấn Sơn Nam Thượng Trần Ngọc Quán phục nàng: Tài cao nhã phượng thế gian kinh, Nguyễn Du so sánh nàng với Tiểu Thanh; Trương Đăng Quế, Hoàng Diệu Khuê, Trương Bỉnh Thuyên sánh nàng với Ban Chiêu, Tạ Huệ Liên, Tô Tiểu Muội, Sái Cơ của Trung Quốc, và đem Mai Am nữ sĩ, tức Công Chúa Lại Đức so sánh với Hồ Xuân Hương, (dĩ nhiên không thể sánh công chúa triều đình với một nhà thơ dâm tục được.) Hồ Xuân Hương lận đận trên đường tình ái, trên bốn mươi mới gặp được Tri phủ Tam Đái tức Vĩnh Tường, sau được thăng lên làm Hiệp Trấn Yên Quảng là Trần Phúc Hiển, được ba năm Phúc Hiển bị vu tội tham nhũng, nhưng thật ra Phúc Hiển chết là vì vây cánh của Nguyễn Văn Thành, Đặng Trần Thường bị phe Lê Chất, Lê Văn Duyệt diệt, Thi tướng tao đàn Cổ Nguyệt đường là Hiệp Trấn Sơn Nam Thượng Trần Ngọc Quán cũng tự tử chết. Tác phẩm nổi bật nhất của bà là số thơ Nôm trong Xuân Hương Thi Tập (dù có đôi bài đáng nghi vấn). Ngoài ra bà còn để lại tập thơ chữ Hán tựa đề Lưu Hương Ký. Thơ văn bà có ý lẳng lơ, mai mỉa, tinh nghịch, táo bạo, nhưng chứa chan tình cảm lãng mạn, thoát ly hẳn với những lễ giáo phong kiến thời bấy giờ. 5- Nguyễn Công Trứ (1778-1858) Cụ Nguyễn Công Trứ (1778-1858), tự là Tồn Chất, hiệu là Ngộ Trai, biệt hiệu là Hi Văn, người làng Uy Viễn, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh, tư chất thông minh, tính người hào phóng. Cụ xuất thân trong một gia đình khoa bảng. Cụ thân sinh là Nguyễn Tần, đỗ Hương Cống đời nhà Lê . Buổi thiếu thời, dù sống trong cảnh hàn vi, cụ luôn cố công trau dồi kinh sử để mong thi đỗ ra làm quan giúp dân, giúp nước. Sau nhiều lần thi hỏng, Cụ cuối cùng đậu Tú Tài năm 1813 và đậu Giải Nguyên năm Gia Long thứ 18 (1819) và đến năm Minh Mệnh nguyên niên 1820, bắt đầu ra làm quan, bấy giờ Cụ đã 42 tuổi . Cụ trải thờ ba triều: Minh Mệnh, Thiệu Trị và Tự Đức. Từ chức hành tẩu Sử quán, thăng lên đến Binh bộ thượng thư lãnh chức Tổng đốc (bởi vậy tục thường gọi là Cụ Thượng Trứ). Nhưng hoạn lộ của Cụ lên voi xuống chó, chìm nổi nhiều phen: mấy lần bị giáng chức, một lần bị cách tuột; kết cục lúc về hưu (Tự Đức nguyên niên, 1848) chỉ còn lại hàm Thừa Thiên phủ doãn. Bấy giờ Cụ đã 71 tuổi . Khi về hưu, lúc Cụ ở quê nhà , lúc Cụ ở chùa, lúc Cụ đến ở hai huyện Kim Sơn, Tiền Hải là nơi Cụ đã có công khai thác, gác bỏ việc đời, ngao du sơn thủy, sinh hoạt trong cảnh an nhàn. Cụ mất ngày 7 tháng 12 năm 1858 tại chính quán, thọ 81 tuổi, được phong tước Dinh Bình Hầu . Cụ tuy làm quan văn, nhưng có tài thao lược, nên Cụ từng đi đánh giặc nhiều phen, giúp triều đình nhà Nguyễn đàn áp nhiều cuộc khởi nghĩa lớn (Lê Duy Lương, Nông Văn Vân, Phan Bá Vành ...). Nhưng cái công nghiệp to nhất của Cụ lúc làm Doanh Điền Sứ, giúp dân khai khẩn đất hoang (1828) ở vùng bãi biển tỉnh Nam Định và tỉnh Ninh Bình để lập ra hai huyện Tiền Hải (nay thuộc Thái Bình) và Kim Sơn (vẫn thuộc Ninh Bình). Cụ có biệt tài về văn nôm. Văn Cụ làm đủ các lối, (chữ Hán (câu đối, sớ) cũng như chữ Nôm (thơ, hát nói, phú, câu đối, ca trù ...), nhưng sở trường nhất là lối hát nói . Văn Cụ lỗi lạc khác thường; không thiên về tình buồn như phần nhiều các thơ ca của ta; trái lại, Cụ thường khuyên người ta phải gắng gổ làm tròn phận sự, lập nên công nghiệp và lúc nào cũng nên vui vẻ, dầu gặp cảnh nghèo khó cũng vậy . Lời văn lại hào hùng và ngạo nghễ, biểu lộ một bản lĩnh vững chắc, một chí khí mạnh mẽ, và thái độ cầu tiến, vươn lên, thật rõ là khẩu khí của một người suốt đời hăng hái làm việc cho đời, tận tụy với chức vụ . Tham khảo từ: + Nguyễn Công Trứ, Con Người và Sự Nghiệp, Chu Trọng Huyến. + Đại Nam Liệt Truyện, Quốc Sử Quán nhà Nguyễn. + Thi Ca Cổ Điển, Bảo Vân. 6-Nguyễn Gia Thiều Nguyễn Gia Thiều sinh năm 1741, không rõ ngày tháng nào, ở làng Liễu Ngạn, tổng Liễu Lâm, huyện Siêu Loại, phủ Thuận Thành, xứ Kinh Bắc, nay là huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, trong một gia đình đại qúy tộc, có nhiều người làm tướng, làm quan cho triều đình. Ông thân sinh của Nguyễn Gia Thiều là Nguyễn Gia Cư, một võ quan cao cấp được phong tước hầụ Mẹ Nguyễn Gia Thiều là quận chúa Quỳnh Liên, con gái An Đô vương Trịnh Cương. Nguyễn Gia Thiều gọi chúa Trịnh Doanh đang cầm quyền lúc bấy giờ là cậu ruột, và là con cô cậu với chúa Trịnh Sâm. Vì gia đình bên ngoại thuộc họ nhà chúa, nên từ lúc lên năm lên sáụ Nguyễn Gia Thiều đã được vào học trong phủ chúạ Ông nổi tiếng là người thông minh, học rộng, văn võ kiêm toàn. Ông lại còn tinh thông nhiều bộ môn nghệ thuật như âm nhạc, hội họa, kiến trúc, trang trí. Về âm nhạc, Nguyễn Gia Thiều sở trường các bài ca, bài tán. Ông là tác giả các bản "Sơn trung âm" và "Sở từ điệu". Về hội họa, ông có bức tranh lớn "Tống sơn đồ", dâng vua xem được khen thưởng. Về kiến trúc, trang trí, ông là người được chúa Trịnh giao cho trông nom việc trang hoàn phủ chúa và điều khiển xây tháp chùa Thiên Tích. Các công trình nghệ thuật của Nguyễn Gia Thiều đến nay không còn một cái nào, nhưng trong sáng tác văn học thì những tri thức về nghệ thuật của ông được phản ánh một cách khá rõ... Nguyễn Gia Thiều là một người rất được chúa Trịnh tin dùng. Năm 1759, mười tám tuổi, ông giữ chức Hiệu úy, quản Trung mã tả đội; sau đó ông làm chỉ huy Thiêm sự, năm 1782 thăng Tổng binh coi giữ xứ Hưng Hóa, và vì có quân công ông được phong tước hầu - Ôn Như hầụ Các em ông cũng lần lược được phong tước hầu, tước bá, như Nguyễn Gia Thưởng là Thưởng Vũ bá; Nguyễn Gia Xuyên là Du Lãnh hầụ Thời gian làm Tổng binh ở Hưng Hóa, mặc dù có công được khen thưởng, Nguyễn Gia Thiều vẫn thường hay bỏ về nhà riêng ở gần hồ Tây để vui chơi, làm thơ và bàn luận về triết học. Ông tự xưng là Hy Tôn tử và Như ý thiền, lấy biệt hiệu là Tân Thi viện tử và Sưu Nhân. Có người bảo giai đoạn này chúa Trịnh không còn tin ông như trước, mới đẩy ông đi trấn giữ Hưng Hóa, và Nguyễn Gia Thiều biết điều đó, nên ông chán nản bỏ về. Năm 1786, Tây Sơn kéo quân ra Bắc diệt Trịnh, Nguyễn Gia Thiều trốn lên miền núi xứ Hưng Hóạ Năm 1789, Nguyễn Huệ đại thắng quân Thanh, lập ra triều đại mớị Vua Quang Trung trọng người tài, thu dụng một số quan lại cũ của triều đình Lê - Trịnh, Nguyễn Gia Thiều được mời ra cộng tác, nhưng ông cáo bệnh từ chốị Nguyễn Gia Thiều về lại làng cũ, sống ở đấy, hằng ngày uống rượu tiêu sầu, giả ngây giả dại và đến ngày 9 tháng 5 Mậu ngọ, tức ngày 22 tháng 6 năm 1798 thì mất, thọ 57 tuổị Về sáng tác, Nguyễn Gia Thiều có hai tập thơ chữ Hán là "Ôn Như thi tập" có đến nghìn bài, hiện không tìm thấỵ Phần viết bằng chữ Nôm ngoài "Cung oán ngâm khúc" là tác phẩm nổi tiếng nhất, Nguyễn Gia Thiều còn có "Tây hồ thi tập" và "Tứ trai thi tập", hiện cũng chỉ còn vài ba bài chép trong tập "Tạp ký" của Lý Văn Phức. "Cung oán ngâm khúc" của Nguyễn Gia Thiều là một tác phẩm chịu ảnh hưởng sâu sắc bản dịch "Chinh phụ ngâm" của Đoàn Thị Điểm, từ thể loại ngâm khúc viết bằng song thất lục bát đến cách phát triển chủ đề cũng như bút phá ... c bút danh tuy chỉ được ghép bằng những chữ nôm thôi, song ý nghĩa thì đậm tinh thần lạc quan Cách mạng. Ấy là Thép Mới, là Tre Xanh, là Lửa Hồng, là... Vốn sẵn định kiến với cái tên mang dấu ấn Hán ngữ của mình, chẳng khó khăn gì mà cây bút trẻ không xoay xỏa cho mình một bút danh. Và thế là cái tên Vũ Bão chính thức “trình làng” từ đây. Nhưng rồi, niềm vui ngắn chẳng tày gang, không ai khác mà chính cụ thân sinh ra Vũ Bão đã “mở mắt” cho ông thấy, ông đã “tránh vỏ dưa lại gặp vỏ dừa”, bởi chữ “bão” tiếng vậy nhưng lại là chữ Hán. Nó có nghĩa là “no” (trong câu “thực vô cầu bão”, nghĩa là ăn chẳng cầu no), chứ không chỉ đơn giản như ông nghĩ “bão” là “gió bão”. Tuy nhiên, khi “ngộ” ra điều này thì cuốn tiểu thuyết “Sắp cưới” của Vũ Bão đang bị xem là “có vấn đề”, bị báo chí lên tiếng chỉ trích (sau Đổi mới, cuốn tiểu thuyết đã được NXB Phụ nữ tái bản với số lượng lớn). Trong tình cảnh ấy, nếu ông chọn cho mình một cái bút danh khác e bạn bè thân hữu hiểu lầm là tác giả có ý “bỏ của chạy lấy người”. Bởi vậy ông đành cắn răng giữ lại cái bút danh này. Nhà văn Vũ Bão tâm sự: Càng cứng tuổi, ông càng nhận chân ra một điều: Cái tên Phạm Thế Hệ thoạt nghe có vẻ... ngang tàng, song kỳ thực cái tên Vũ Bão còn... ngang tàng hơn. Điều này làm ông có lúc cảm thấy ân hận, hối tiếc phút “hăng tiết vịt” của mình. Bây giờ, đi đâu nghe người ta giới thiệu tên mình là Vũ Bão, ông không khỏi có cảm giác sượng sùng, ngài ngại, vì cái tên nghe thì “hùng dũng” vậy, song bên ngoài thì lại là một ông già vóc dáng thấp bé nhẹ cân, bước chân tập tà tập tễnh, nói chung là “rất núng thế”. Ông không muốn mọi người bất ngờ về “nghịch cảnh” ấy. Xung quanh bút danh Vũ Bão cũng lắm chuyện hài. Gần đây nhất là chuyện một ông kiến trúc sư tên khai sinh là Vũ Bão, nhưng vì nổi máu viết văn và thấy trước mình đã có “sư huynh” Vũ Bão án ngữ rồi, nên để khỏi phiền toái đã đổi tên mình thành Bão Vũ. Hiện tác giả Bão Vũ cũng đã trở thành hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Những lần hai ông gặp nhau, Vũ Bão thường đùa trêu: “Tớ không phải tên Vũ Bão mà lấy là Vũ Bão. Còn cậu là Vũ Bão thật lại phải đổi tên. Đúng là đời nay, người ngay sợ... kẻ gian”. Những người bạn đồng môn, đồng hương; anh em ruột thịt của nhà văn Nam Cao kể chuyện nhà văn Nam Cao chọn bút danh: Ông Trần Hữu Đạt (em ruột nhà văn Nam Cao) kể: Rất nhiều bạn đồng môn, đồng hữu như ông Hoàng Tùng, Hoàng Cao và một số người có dịp gặp nhà văn đều gạn hỏi: Cớ sao ông lại lấy bút danh Nam Cao? Nhà văn tủm tỉm: - Làng mình đã có hai ông hoàng rồi (ý nói Hoàng Tùng, Hoàng Cao lúc ấy đang giữ trọng trách trong Đảng và quân đội). Còn mình thì võ dốt lắm. Ông Hoàng Cao - bạn thân và cũng là người họ hàng với nhà văn nhớ lại: Lúc chia tay, mỗi người một hướng đánh giặc. Nam Cao tâm sự với Hoàng Cao: “Chúng mình là con trai làng Đại Hoàng, trai Lý Nhân, trai Nam Sang, đi đâu, làm gì cũng phải xứng danh là trai Nam Sang nhé! Các cậu là Hoàng thì phải Huy Hoàng, Đại Hoàng nhé!”. Ông Hoàng Cao nhớ rõ: Nhiều lần ông lục tìm các tài liệu, bản thảo còn lại của Nam Cao thì thấy: Bản thảo nào Nam Cao cũng đề rõ ở góc trên, bên trái, trang đầu: Đại Nam quốc Hà Nam tỉnh Nam Sang huyện Lý Nhân phủ Cao Đà tổng Đại Hoàng xã Các bản thảo đều được nhà văn ghi chữ Nam, có bản lại ghi chữ Cao hoặc Nam Cao ở dưới các hàng chữ trên. Nhưng vẫn không quên ghi rõ tên Trần Hữu Tri (là tên thật của nhà văn) dưới bản thảo. Theo ông Trần Hữu Đạt, thì anh trai mình lấy bút danh là Nam Cao là do nhà văn ghép chữ đầu tên huyện (Nam) với chữ đầu tên tổng (Cao) để nhớ ơn mảnh đất nơi ông đã sinh thành. “Nam Cao” còn có ý nghĩa là nước Nam, cao cả, cao sang nữa. Nam Cao vốn là nhà văn có lòng yêu nước, yêu quê hương, yêu nhân dân vô cùng sâu sắc. Nam Cao đã có những trang viết xứng đáng với niềm tin yêu, quý mến của quê hương ông. Bút danh Nam Cao sống mãi và tỏa sáng mãi với các tác phẩm nổi tiếng của nhà văn: Chí Phèo, Lão Hạc, Sống mòn, Đôi mắt Nam Cao đã vinh dự được nhận giải thưởng cao quý: Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt 1 năm 1996. Tên của ông được trân trọng đặt cho 1 đường phố ở Thủ đô Hà Nội. Tỉnh Hà Nam lấy tên ông đặt cho một vườn hoa – công viên ở giữa lòng thị xã Phủ Lý yêu thương. Huyện Lý Nhân chọn tên ông để đặt tên cho mái trường, nơi hun đúc những tài năng tương lai của đất nước. UBND tỉnh Hà Nam đã chọn tên ông để đặt tên cho Giải báo chí của tỉnh. Ngoài bút danh Nam Cao, nhà văn còn có một số bút danh khác: Thúy Rư, Nhiêu Khê, Xuân Du Theo nhà văn Tô Hoài, Nam Cao ký bút danh Nhiêu Khê là có ý đùa. Còn bút danh Xuân Du mà nhà văn ký dưới các bài thơ của mình là do ông lấy 2 chữ ở đầu câu thơ mà nhà văn và Tô Hoài hồi ấy thường ngâm ngợi: Xuân du phương thảo địa Hạ thưởng lục hà trì Thu ẩm hoàng hoa tửu Đông ngâm bạch tuyết thi Tạm dịch: Mùa xuân chơi miền cỏ non Mùa hạ tắm hồ sen ngát Mùa thu uống rượu hoàng hoa Mùa đông ngâm thơ tuyết trắng Còn bút danh Thúy Rư thì do nhà văn lấy một số chữ trong tên thật của mình (Trần Hữu Tri) để ghép lại mà thành. Ở đây chữ i đã được thay bằng chữ y. Hồi hoạt động ở Việt Bắc, Nam Cao còn có tên là Ma Văn Hữu. Nhà văn Tô Hoài lấy tên là Nông Văn Tư. Khi đi công tác, Nam Cao thường mang giấy tờ mang tên Ma Văn Hữu, nghề nghiệp: Dạy bổ túc văn hóa. Nam Cao cùng Nguyễn Huy Tưởng, trong chuyến đi cuối cùng vào khu Bốn, ra khu Ba, Nam Cao cũng mang theo giấy tờ ghi tên đó. Hồi Cứu quốc ở Việt Bắc, báo tỉnh Hà Nam, báo Quân khu Ba Nam Cao làm ca dao còn lấy bút danh Suối Trong. Trong tất cả các bút danh mà nhà văn đã dùng, Nam Cao là bút danh để lại trong lòng người đọc và nhân dân nhiều kỷ niệm và nhiều ý nghĩa sâu sắc nhất. Cho đến nay, những nhà sưu tầm, nghiên cứu, những người quan tâm vẫn phân thành 2 "trường phái" khác nhau: Hàn Mạc Tử và Hàn Mặc Tử. Vì thế các cuốn sách, bài báo in ra cũng chia làm 2 nhóm: nhóm Mặc và nhóm Mạc. Những "đại biểu tiên phong" cho "trường phái Mạc" có thể kể: Giáo sư Hoàng Như Mai, Giáo sư Văn Tâm, nhà sưu tầm Phạm Xuân Tuyển. Phạm Xuân Tuyển đã làm một bản thống kê những tài liệu sử dụng chữ Mạc như sau: Báo Người Mới trong các số chuyên đề về Tử năm 1941, Trần Thanh Mại trong cuốn sách viết về Tử năm 1942, Hoài Thanh - Hoài Chân trong Thi nhân Việt Nam năm 1942, Phó tiến sĩ Phùng Quý Nhâm trên Kiến Thức Ngày Nay số 47, giáo sư Hà Minh Đức trong Tổng tập Văn học Việt Nam số 27, giáo sư Lê Đình Kỵ trong Thơ Mới - Những bước thăng trầm - 1993, giáo sư Vũ Ngọc Khánh trong tập Thơ tình yêu - 1995, giáo sư Hà Vinh - Khoa tiếng Việt - Đại học Tổng hợp Hà Nội trong Tạp chí Văn Học - 1995, giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh - Phó tiến sĩ Trần Đăng Xuyền trong sách Những bài văn hay và khó - 1995... Còn những người theo "trường phái Mặc" gồm những ai? Có lẽ hai người quan trọng nhất là Nguyễn Bá Tín, em ruột nhà thơ và Quách Tấn, bạn thân nhà thơ. Nguyễn Bá Tín đã dùng Mặc trong hai cuốn sách quan trọng của mình, cuốn Hàn Mặc Tử anh tôi - 1991 và Hàn Mặc Tử trong riêng tư - 1994. Quách Tấn cũng dùng Mặc trong Bóng ngày qua - 2000. Những người khác có thể kể: Chế Lan Viên trong Tuyển tập Hàn Mặc Tử - 1987, Lữ Huy Nguyên trong Hàn Mặc Tử thơ và đời - 1994, Trần Thị Huyền Trang trong Hàn Mặc Tử hương thơm và mật đắng, Vương Trí Nhàn trong Hàn Mặc Tử - Hôm qua và hôm nay... Nguyễn Bá Tín cho biết, bút danh Hàn Mặc Tử đã có trước, còn bút danh Hàn Mạc Tử chỉ là bạn bè đặt cho để trêu đùa: "Có nhiều hôm anh ngồi thừ trên chiếc ghế mây, nhìn qua bức mành tre sáo trước cửa, đợi chị Cúc đi ngang qua, trông anh đến thiểu não. Chị Cúc biết điều đó, về sau kể với con gái chị Như Lễ rằng: Nghĩ tội nghiệp anh quá. Bạn bè đến chơi trông thấy anh ngồi buồn bã như kẻ thất tình, nên thường trêu cợt anh là con người sau bức rèm lạnh và gọi đùa anh là Hàn Mạc Tử. Chữ Hàn ở đây có nghĩa là lạnh và chữ Mạc không dấu là bức màn. Hai chữ Hàn Mạc là bức rèm lạnh. Anh chỉ cười, không nói gì, cũng không để ý đến nữa. Mãi về sau khi anh qua đời còn nhiều người vẫn tưởng lầm bút hiệu của anh là Hàn Mạc Tử". Ông Tín cho biết, Tử vốn rất ngưỡng mộ triết gia Mặc Dịch thời Chiến Quốc, nổi tiếng chủ trương thuyết Kiêm ái, nên anh cũng tự nhận thuộc môn phái Mặc Dịch, thương yêu hết mọi người. Chữ Mặc Tử có ý nghĩa là môn đồ Mặc Dịch. Chữ Mạc Tử thì không có ý nghĩa gì. Chữ Hàn Mặc Tử nói lên ý nghĩa một thi sĩ nghèo nàn, nhưng tình thương rộng rãi bao la. Quách Tấn thì kể tỉ mỉ hơn và có phần khác Nguyễn Bá Tín. Quách Tấn cho biết, khi mới bước vào làng thơ, Tử lấy bút danh là Minh Duệ Thị. Sau đổi là Phong Trần. Tử nổi tiếng với bút danh Phong Trần nhờ cuộc xướng họa thơ văn lịch sử với Phan Bội Châu. Khi Quách Tấn quen thân Tử, Quách Tấn chê bút danh Phong Trần không hợp với Tử. Vì thế Tử đổi qua bút danh Lệ Thanh. Bút danh này đã gắn chặt với tập thơ Lệ Thanh Thi Tập của Tử. Nhưng được ít lâu Quách Tấn lại chê. Tử lại đổi qua Hàn Mạc Tử. Quách Tấn lại chê nữa. Khi đó Tử nổi nóng. Quách Tấn liền gợi ý: "Đã có rèm thì thêm bóng trăng vào. Hỏi còn cảnh nào nên thơ bằng?". Nghe vậy, Tử thêm "bóng trăng" là dấu á trên đầu chữ a nên chữ Mạc thành ra Mặc. Từ đó bút danh đổi nghĩa từ kiếp rèm lạnh ra anh chàng bút mực. Bút danh này khiến Tử rất thích và dùng luôn. Lời giải thích trên đây nghe cũng thật có lý nhưng mấy chục năm nay vẫn không thuyết phục được những người theo "trường phái Mạc", cho nên cuộc tranh cãi này chưa biết bao giờ kết thúc nếu không tìm được bút tích của chính nhà thơ để chứng minh ai đúng ai sai. Chế Lan Viên tên thật là Phan Ngọc Hoan, ông sinh ngày 14/1/1920 tại Đông Hà (Quảng Trị). Ông lấy bút danh họ Chế, với bút danh này ông đã nổi tiếng ngay từ tuổi 17 với tập thơ “Điêu tàn”. Nói như nhà phê bình văn học Hoài Thanh tập thơ “Điêu tàn” ra đời như một niềm kinh dị trong thi đàn đương đại! Trong bài giới thiệu tập tiểu luận “Những bước đường tư tưởng của tôi” của Xuân Diệu đăng trên báo Văn học 9 - 1958 ông ký bút danh Thạch Hãn (tên một con sông tỉnh Quảng Trị quê ông) nhiều bài báo in trên báo Thống Nhất xuất bản ở Hà Nội trước tháng 5/1975 ông cũng ghi bút danh này. Năm 1959 – 1963, Chế Lan Viên làm biên tập báo Văn học (nay là báo Văn nghệ), ông phụ trách chuyên mục “Nói chuyện văn thơ” gồm những bài trả lời bạn đọc về công việc bếp núc văn chương, ông ký tên là Chàng Văn. Năm 1961, Nhà xuất bản Văn học xuất bản thành hai tập “Vào nghề” và “Nói chuyện văn thơ” với tác giả Chàng Văn. Báo Văn học số 29 ra thứ sáu, 13/2/1959 đăng ở trang 16 mục “Nụ cười xuân”, Chế Lan Viên có in hai bài viết ngắn đả kích Mỹ Diệm là “Ngô bói Kiều” và “Lý luận Đờ Gôn” ông ký tên Oah (tức Hoan). Vậy là Chế Lan Viên có 4 bút danh.
Tài liệu đính kèm: