Nguyễn Du: (1765-1820)
Cụ tự là Tố Như, hiệu Thanh Hiên, người làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, Tỉnh Hà Tĩnh. Tổ tiên nhà cụ đời đời làm quan với nhà Hậu Lê. Cụ có khí tiết: sau khi Tây Sơn dứt nhà Lê, cụ không chịu ra làm quan, chỉ lấy chơi bời săn bắn làm vui, trong chín mươi chín ngọn núi Hồng Sơn (ở vùng Nghệ An, Hà Tĩnh) không chỗ nào cụ không đi tới.
Năm Gia Long nguyên niên (1802), cụ được triệu ra làm tri huyện huyện Phù Dực (nay thuộc Tỉnh Thái Bình), rồi được ít lâu thăng tri phủ Thường Tín (Hà Đông). Năm thứ tám (1809), cụ ra làm cai bạ tỉnh Quảng Bình. Năm thứ mười hai (1813), thăng Cần chánh điện học sĩ, sung làm chánh sứ sang cống bên Tàu. Đến khi về, thăng Lễ bộ hữu tham tri. Năm Minh mệnh nguyên niên (1820), lại có mệnh sang sứ Tàu, nhưng chưa kịp đi thì cụ mất, thọ 56 tuổi.
Cụ học rộng, không những tinh thâm nho học, lại thông đạt cả đạo Phật, đạo Lão. Cụ làm nhiều thơ văn và sách vở bằng chữ nho, như Thanh hiên tiền hậu tập, Bắc hành thi tập, Nam trung tạp ngâm, Lê quý kỷ sự. Cụ lại có biệt tài về văn nôm. Khi đi sứ Tàu về, cụ có soạn quyển truyện Thúy Kiều mà nguyên lúc đầu tác giả đặt nhan là Đoạn trường tân thanh (đoạn trường: đứt ruột; tân thanh: tiếng mới).
Thơ Nguyễn Du: Tiểu Sử Tác Giả Nguyễn Du: (1765-1820) Cụ tự là Tố Như, hiệu Thanh Hiên, người làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, Tỉnh Hà Tĩnh. Tổ tiên nhà cụ đời đời làm quan với nhà Hậu Lê. Cụ có khí tiết: sau khi Tây Sơn dứt nhà Lê, cụ không chịu ra làm quan, chỉ lấy chơi bời săn bắn làm vui, trong chín mươi chín ngọn núi Hồng Sơn (ở vùng Nghệ An, Hà Tĩnh) không chỗ nào cụ không đi tới. Năm Gia Long nguyên niên (1802), cụ được triệu ra làm tri huyện huyện Phù Dực (nay thuộc Tỉnh Thái Bình), rồi được ít lâu thăng tri phủ Thường Tín (Hà Đông). Năm thứ tám (1809), cụ ra làm cai bạ tỉnh Quảng Bình. Năm thứ mười hai (1813), thăng Cần chánh điện học sĩ, sung làm chánh sứ sang cống bên Tàu. Đến khi về, thăng Lễ bộ hữu tham tri. Năm Minh mệnh nguyên niên (1820), lại có mệnh sang sứ Tàu, nhưng chưa kịp đi thì cụ mất, thọ 56 tuổi. Cụ học rộng, không những tinh thâm nho học, lại thông đạt cả đạo Phật, đạo Lão. Cụ làm nhiều thơ văn và sách vở bằng chữ nho, như Thanh hiên tiền hậu tập, Bắc hành thi tập, Nam trung tạp ngâm, Lê quý kỷ sự. Cụ lại có biệt tài về văn nôm. Khi đi sứ Tàu về, cụ có soạn quyển truyện Thúy Kiều mà nguyên lúc đầu tác giả đặt nhan là Đoạn trường tân thanh (đoạn trường: đứt ruột; tân thanh: tiếng mới). Long Thành Cẩm Giả Ca Đất Long Thành khách giai nhân nọ, Không nhớ ra tên họ là gì. Nguyễn Cầm nổi tiếng đương thì, Tên Cầm mượn của đàn kia gọi người. Khúc cung phụng những đời vua trước, Tưởng quân thiên nhã nhạc khôn bì, Nhớ hồi tuổi trẻ xưa kia, Đêm bên hồ giám một kì tiệc vui. Xuân đương hồi ba bảy, Ánh hồng trang lộng lẫy mặt hoa. Não người vẻ rượu ngà ngà , Năm cung dìu dặt nảy qua phím đàn. Tiếng khoan thoảng thông ngàn gió thổi. Tiếng trong như hạc gọi xa xăm, Mạnh như Tiến Phúc sét gầm. Buồn như tiếng Việt, Trang nằm đau rên Ai nấy nghe nhường quên mệt mỏi, Rõ tiếng đàn đại nội Trung Hòa. Tây Sơn quan khách là đà, Mải vui quên cả tiếng gà tan canh. Tả lại hữu tranh giành gieo thưởng, Tiền như bùn ước lược qua qua. Vương hầu thua vẻ hào hoa, Ngũ Lăng chàng trẻ ai mà kể chi. Băm sáu cung xuân kia chung đúc, Đất Tràng An hạt ngọc liên thành. Hai mươi năm, tiệc qua nhanh, Tây Sơn sụp đổ thì mình về nam. Chốn Long Thành tấc gang chẳng tới, Còn nói chi những buổi đàn ca. Nặng tình quan Sứ tiễn ta, Tiệc hoa kén những bông hoa nói cười. Mé cuối tiệc một người nho nhỏ, Tóc hoa râm mặt võ mình gầy, Bơ phờ chẳng sửa đôi mày, Tài hoa ai biết đất này không hai! Thoáng mấy tiếng, thầm rơi giọt lệ, Lọt tai mà như xé tấc son. Giật mình hai chục năm tròn, Tiệc bên hồ Giám người còn chưa quên. Cuộc thươnghải tang điền thấm thoát, Cõi nhân gian thành quách đổi đời. Tây Sơn cơ nghiệp đâu rồi, Mà làng ca vũ một người còn trơ. Ngàn trăm năm thì giờ chớp mắt, Lệ thương tâm ướt vạt áo là. Nam về đầu bạc ngẫm ta, Trách gì hương phấn bông hoa chẳng tà! Trừng trừng đôi mắt mơ màng, Quen mà hóa lạ nghĩ càng thêm thương. Hoàng Tạo Dịch Đêm Thu Sương sa như bạc sao đầy trời, Giun dế tường đông quá ngậm ngùi. Muôn dặm hơi thu xua lá rụng, Một trời sắc lạnh quét mây trôi. Già về tóc bạc nên thương đấy, Trọ mãi non xanh chửa ngán người. Ngán nỗi lênh đênh du khách mỏi, Nằm đau bến tuế tháng năm vơi. Dịch Thơ: Màn sao đầy sáng móc sương ngần, Dọng dế tường đông thảm bội phần. Muôn dặm hơi thu xua lá rụng, Một trời hơi lạnh quét mây vần. Già về tóc bạc thương ngươi đấy, Trọ mãi non xanh núi vẫn thân. Mệt mỏi khách du đà lận đận, Ốm bên bến Tuế buổi cùng năm. Làng Núi Vào sâu muôn núi dứt phong trần, Đây đó muôn chiều cảnh trúc ngăn. Mũ áo người già khuyên kiểu Hán, Trong non năm tháng khác xa Tần. Trẻ chăn sừng gõ đồng loang tối, Gái trẻ gàu buông giếng nước xuân. Sao được thoát ngoài trần tục nhỉ, Thông dài dưới gốc thảnh thơi thân. Thăng Long Lô Tản xưa rày vẫn núi sông, Bạc đầu còn được thấy Thăng Long. Nghìn năm dinh lớn sau đường cái, Một mảng thành nay xóa cố cung. Người đẹp từng quen giờ aÜm cháu, Bạn chơi thời nhỏ thảy nên ông. Một đêm vương vấn khổ không ngủ, Tiếng sáo vi vu ánh nguyệt hồng. Thành mới trang xưa lại sáng soi, Thăng Long nà vẫn đế kinh ơi. Ngõ rộng đường mở nền xưa lẫn, Đàn sáo bài quen đổi mấy lời. Phú quí ngàn năm giành giật mãi, Bạn bè ngày cũ nửa phôi phai. Cuộc đời chìm nổi đừng than thở, Ngay mái đầu ta cũng bạc rồi. Tự Thán Sống chửa nên danh sức đã suy, Bạc đầu phơ phất gió chiều đi. Nết như chân hạc sao đành cắt, Mệnh tựa lông hồng chẳng biết chi. Trời đất phú cho hình tướng kém, Xuân thu trả lại trắng tu mi. Gió tây lộng cách bồng bay gấp, Rồi nữa lênh đênh đâu chốn về? Tấm thân sáu thước tuổi ba mươi, Lầm lỡ thông minh hại tính trời. Vốn chẳng văn chương căm oán mệnh, Có chi trời đất ghét ghen người. Sách gươm dang dở làm ăn khó, Lần lữa xuân thu tóc bạc rồi. Sao được cạo đầu về với núi, Nằm nghe thông gió vọng mây trôi. Mộ Chu Du Thiêu sạch quân Tàu trăm vạn binh, Trượng phu âu cũng thỏa bình sinh. Bạn bè nghĩa nặng cùng Tôn Sách, Tri kỉ trên đời được Khổng Minh. Ngói vỡ cung Ngô tan nghiệp đế, Gai đầy mộ cũvẫn lừng danh. Hai kiều xương ngọc vùi đâu tá, Mắt ngó đài Đồng nửa đã chênh. Mộ Bùi Độ Gò đống đồng thu ngó rộng thênh, Tấn công bia mộ vẫn ghi rành. Lòng son như điểm lưu kim cổ, Xương trắng ngàn năm cách tử sinh. Đã saÜn tài cao thừa tướng tướng, Lo gì hình dáng ngán đan thanh. Chiêu Lăng chợt ngó lòng đau đáu, Một dải quên kêu rộn Vị thành. Mở Cửa Sổ Phong quang trước cửa những sao rồi, Rỗi mở song nhìn lắm tốt tươi. Sáu tháng gió liền bằng chẳng nghỉ, Một trận mưa đọng kiến đang dời. Chiên xanh vật cũ khổ gìn giữ, Tóc bạc lòng hăng suông thở dài. Bệnh cũ đang cần hồi lại sức, Tứ thu chẳng biết tới nhà ai? Dịch Thơ: Phong quang trước cửa những sao a, Mở sổ nhàn xem cảnh đậm đà. Sáu tháng gió liền bằng chẳng nghỉ, Một sân mưa đọng kiến dời mà. Chiên xanh vật cũ khó gìn giữ, Tóc bạc lòng hăng luống ngẩn ngơ. Bệnh cũ đang cần hồi lại sức, Nhà ai chả biết tứ thu qua. Thơ Viết Chơi Tráng sĩ bạc đầu thương ngó trời, Chí hùng, cơm áo, khó khăn đôi. Xuân lan thu cúc thành suông chuyện, Đông lạnh hè oi lỡ thiếu thời. Vui dưới non hồng vàng chó chạy, Ốm sen sông Quế trắng mây trôi. Ở làng không chán luôn mua rượu, Trong túi đang còn tiền ba mươi. Dịch Thơ: Tráng sĩ bạc đầu thương ngó lên, Chí hùng cơm áo thảy chưa yên. Xuân lan thu cúc thành suông chuyện, Đông lạnh hè oi lỡ thiếu niên. Hồng lĩnh vui săn vàng chó chạy, Quế giang nằm ốm trắng mây bên. Ở làng được cài chăm mua rượu, Ba chục đồng đây túi saÜn tiền. Mộ Nhạc Phi Trung Nguyên trăm trận nổi anh hùng, Tám trượng thương dài, nặng cánh cung. Phủ tướng đã thành ngục Ba chữ, Cửa quân còn tiếc mười năm công. Sông hồ chốn chốn vùng nam vắng, Thông trắc ngang tàng gió bắc tung. Buồn ngó Lân An lăng miếu cũ, Thê hà bóng núi khói chiều rung. Hứng Lan Man Trăm năm nhân thế gửi phong trần, Ăn trọ ven sông lại hải tần. Giấc mộng gác vàng lâu chả hứng, Danh hờ đầu bạc mãi lần khân. Suốt xuân bệnh mãi nghèo không thuốc, Ba chục phù thân sinh khổ thân. Xa nhớ quê làng ngàn dặm thẳm, Xóm đông xe ngựa thẹn vô ngần. Chân chẳng nơi yên tựa cánh hồng, Sông nam sông bắc túi suông không. Trăm năm nghèo chết trong thơ phú, Sáu thước phù sinh chả thoát vòng. Muôn dặm mũ vàng trời sắp tối, Một đầu tóc bạc gió tây rung. Vô cùng nay trước lòng đau đáu, Núi cũ còn xanh nắng xế hồng. Long vĩ bờ bên trắng lắm cò, Sông Lam nhà ấy có hàn nho. Một đời thơ phú rằng vô ích, Đàn sách đầy rương chỉ chuốc ngu. Trăm tuổi kiếp người buồn chớp mắt, Lúc già vui thú tiếc vi vu. Rồi đây dưới cỏ gò tây đó, Giọt rượu trùng dương ai chuốc cho. Lầu Hạc Vàng Đâu đó thần tiên trải bấy nay, Dấu tiên còn lại bến sông này. Xưa nay qua lại mơ quê cũ, Hạc vắng lầu không thơ Hạo đây. Mờ mịt ngoài song màu khói trắng, Xa xanh rước mắt cỏ cây bầy. Cùng ai dãi tỏ lòng riêng được, Gió mát trăng trong cũng chẳng hay. Đài Đồng Tước Anh hùng một thuở giờ đâu đây, Người xưa đi chừ lại người nay. Không thấy thành Nghiệp Ngụy Vũ để, Chỉ thấy bên sông Đồng Tước đài. Nền đài dù còn đã sụt lở, Gió lạnh thét gào cỏ thu úa. Rồng ngọc phương vàng đều mang mang, Nói chi ca nhi trong đài nữa. Người ấy lúc thịnh ai dám dương, Coi thường hoàng đế, át hầu vương. Chỉ hận đài cao suông chót vót, Tiểu Kiều vẫn ở với Chu Lang. Một sớm nạn lớn mà xảy ra, Dâng lễ hát ca vui lũ quỉ. "Chia hương, bán dép" khổ dặn dò, Trượng phu lỗi lạc sao như thế. Gian hùng tự có tâm dịa riêng, Chẳng có khóc lóc thói nhi nữ. Ngàn khôn vạn khéo đều thành không, Muôn thuở sông Chương nước rầu rĩ. Ta nhớ nngười xưa quên nỗi mình, Bâng khuân ngắm cảnh đau phù sinh. Anh hùnh như thế còn như thế, Huống hồ chút công và chút danh. Nghiệp lớn cõi đời nếu bền mãi, Đài cao nơi đây chưa nghiêng chênh. Tượng Vương Thị Lưỡi dài ba thước ích gì không, Khéo chọn quân gian kết vợ chồng. Đặt chuyện lo sau giam hổ lại, Hỏi chi công trước hẹn Hoàng Long. Một lòng bụng dạ như chồng thế, Nghìn thuở dung nhan nhục má hồng. Mỗi nghĩ tới câu "chẳng cần có", Dễ trong lời mớm tự buồng trong. Dịch Thơ: Lưỡi dài ba thước để làm chi, Khéo kết tà gian nghĩa xướng tùy. Bắt hổ bày ra mưu hậu loạn, "Rồng vàng" quên hẳn chuyện xưa đi. Bình sinh tâm địa chồng không kém, Sự nghiệp ngàn năm nhục nữ nhi. Cứ nghĩ đến điều "Chã cần có", Biết đâu không tự chốn buồng khê. Thành Ông Ninh Mình giữa non cao mắt rộng tầm, Anh hùng chuyện cũ bến sông gần. Một thành trên dưới đều cây lớn, Mười dặm oai phong thấy cố nhân. Nam bắc đất này về một mối, Nơi xua giếng bếp đóng ba quân. Trẻ trai chưa hả mười năm hận, Gõ kiếm nhìn mây hát mấy vần. Phản Chiêu Hồn Hồn hỡi hồn sao không về chứ, Khắp phương trời không chốn tựa nương. Lên trời xuống đất hết đường, Mà thành Yên Dĩnh chớ mường để chân. Thành quách thế nhân dân khác hẳn, Bụi bay, trông nhơ bẩn áo người. Vênh vang xe cộ lâu đài, Dứng ngồi bàn tán sánh vai Cao,Quỳ. Họ ngoài mặt không thò nanh vuốt, Cấu xé người nhai nuốt ngọi ngon. Hồ Nam kia mấy trăm chòm, Gầy còm xơ xác không còn thịt da. Nếu hồn cứ thiết tha lối trước, Sau tam hoàng không được hợp thời. Chi bằng sớm liệu chầu trời, Chớ về đây nữa mà người quở quang. Đời sau họ Thượng Quan hết thảy, Khắp nơi nơi dòng chảy Mịch La Cá, Không rỉa, hùm cũng tha Hồn ơi! Hồn hỡi! biết là làm sao? Nhớ Lại Giấc Mơ Ngày đêm nước chảy xiết, Người đi chưa trở về. Lâu không gặp mặt, Lấy gì bớt tương tư. Trong mộng thấy rất rõ, Tìm ta sông bên bờ. Nhan sắc vẫn ... Chẳng thấy em lành một lá thư. Xa Trông Đền Cờn Mênh mang trời biển tiếp liên miên, Bãi cỏ đìu hiu thấp thoáng đền. Cây cổ bãi cò chiều nối lạnh, Mây quang cửa biển khói thu liền. Gào trời, bao tướng lòng son cạn, Vỗ đất Quỳnh nhai hết kẻ truyền. Cười ngán Minh Phi ra cửa ải, Đàn tỳ ly rượu chuốc vua Thiền. Dịch Thơ: Mêng mông biển rộng nối trời mờ, Thấp thoáng cồn xa một miếu trơ. Cây cỏ bãi cò chiều nối lạng, Mây quang cửa biển khói liền thu. Gào trời khanh tướng lòng son cạn, Vỗ đất Quỳnh nhai hết nối thò. Cười ngán Minh Phi ra cửa ải, Đàn tỳ ly rượu chuốc Thiền Vu. Cửa Ải Quỷ Môn Dịch núi giăng giăng cao tựa mây, Cửa chia Nam, Bắc chính là đây. Tử sinh có tiếng nơi nguy thế, Qua lại bao ngày chuyện xót thay! Bụi rậm đầy đường hùm rắn núp, Khói mây khắp chốn quỉ ma đầy. Ngàn thu gió lạnh phơi sương trắng, Công cán khen gì tướng Hán hay! Phạm Khắc Hoan Dịch Cảm Hứng Trong Tù Điệu Nam so phiếm đàn Chung Tử, Tiếng Việt chàng Trang nói giữa đau. Bốn biển phong trần sông núi khóc, Mười tuần lao ngục tử sinh rầu. Bình chương hận cũ bao giờ dứt, Cô Trúc gương cao chẳng thể cầu. Ta có tấc lòng không kẻ nói, Dưới non hồng ấy Quế sông sâu. Đầu Sông Chơi Dạo Thả tóc ca tràn thỏa bước ta, Rau tần gió đông ánh chiều tà. Nước trôi, mây trắng cùng không hết, Cò nổi, ông chài thẩy nhẩn nha. Không lụy chưa đành trêu quỉ oán, Bất tài thêm sợ chuyện quan nha. Năm năm thu sắc đều như thế, Chỉ kẻ xa làng chẳng nhận ra. Dịch Thơ: Xõa tóc ca tràn thỏa bước đi, Bãi tần gió nổi bóng chiều hoe. Nước trôi mây trắng cùng không hết, Ngư phủ phù âu chẳng ngại nghi. Không lụy chưa nên trêu quỉ trách, Bất tài những sợ việc quan chê. Năm năm thu sắc đều như thế, Người ở làng xa chẳng biết gì. Lưu Biệt Anh Nguyễn Gió Tây động áo liễu cao rừng, Chén biệt nghiêng đêm chuyện chẳng ngừng. Đời loạn trẻ trai sầu gió kiếm, Làng xa bè bạn lại rời chân. Non cao nước chảy không người biết, Góc biển chân mây khó chốn lùng. Gửi lại sông nam trăng một mảnh, Đêm đêm soi sáng tấm lòng chung. Ngày Thu Gửi Hứng Gió tây vừa đến người không về, Vụt thấy mười phần lạnh lẽo ghê. Nước cũ núi sông nhìn nắng xế, Làng xa nhân thế gửi mây đi. Chợt kinh cảnh lão hôm nay đến, Đâu chốn hơi thu tối trước nghe. Đầu bạc cười ta kém tháo vát, Lá vàng sao sác ngập sân hè. Dịch Thơ: Gió tây vừa đến khách phong trần, Rét buốt xem ra đã bội phần. Nước cũ núi sông nhìn bóng xế, Làng xa nhân thế gửi phù vân. Tiếng thu đêm trước nơi nào nổi, Cảnh lão hôm nay chợt ngại ngần. Tự ngán bạc đầu vụng xoay xở, Tơi bời lá úa rụng đầy sân. Ngựa Bỏ Bên Thành Nhà ai ngựa ốm bỏ bên đường, Da sạm kông căn gầy thấu xương. Lũy đá cỏ rầu thu lạnh lẽo, Sa trường mây trận bóng chiều buông. Đói lòng không chịu xin rau thóc, Già đến còn mang nghĩa nước non. Dầu dãi gió sương tròn khí tiết, Đừng cho lần nữa mắc yên cương. Ngày Xuân Chợt Hứng Trời xấu lâu rồi mở cửa chi, Lần lữa rét nực giục nhau đi. Làng xa lại biệt người năm trước, Quỳnh hải xuân sang tự xứ người. Xuân ý còn vương mai nở lạnh, Bãi nam thương ngắm cỏ xanh rì. Miếu thôn quanh quẩn ông già xóm, Cam rượu say sưa chửa thấy về. Dịch Thơ: Trời xấu từ lâu cửa vẫn gài, Lữa lần nóng lạnh dục nhau hoài. Làng xa người lại trăm năm biệt, Quỳnh hải nơi nào xuân tới chơi. Lòng ngán bãi Nam nhìn cỏ biếc, Ý vui xuân được biết hoa mai. Miếu thôn quanh quẩn ông già xóm, Cam rượu say sưa mãi chẳng dời. Xúc Cảm Đình Ven Sông Nhớ thuở cha ta cáo lão về, Mé sông rộn ngựa chật đường xe. Rồng thần đưa nước thuyền tiên lướt, Hạc quí ngang không lọng báu che. Xiêm áo vắng tanh từ dạo ấy, Cỏ hoa ngơ ngác mấy bờ đê. Trăm năm bao việc thương âm thế, Cả đến Tràng An cũng khác ghê. Nói Hàn Tín Luyện Quân Trăm vạn hùng binh sang bến Bắc, Đất Yên gươm giáo vẫn chôn ngầm. Hai ngàn năm trải dài bao việc, Man mác thành bên bãi cát lầm. Với Khoái chưa dành trò khúm núm, Trước vua dám sánh chuyện cầm quân. Đáng thương sông núi mười đời vững, Bổng lộc riêng nhà Giáng Quán ăn. Dịch Thơ: Trăm vạn hùng binh bước vượt Hà, Đất Yên dưới vẫn dấu can qua. Dặc dài sau việc hai ngàn thuở, Man mác bên thành bãi cát pha. Với Khoái không dành so kém cỏi, Cùng vua chả dấu chuyện tài ba. Đáng thương sông núi mười đời mới, Giáng, Quán giàu sang chỉ mấy nhà. Tranh Biệt Cùng Giả Nghị Không ai đi qua Hồ Nam, Sao biết sông Tương sâu. Không đọc phú Hoài Sa, Lòng họ Khuất biết đâu. Lòng Khuất Nguyên nước sông Tương, Ngàn thu muôn ngàn trong thất đáy. Xưa nay sao được người đồng tâm, Bài phú Giả sinh không nghĩa lí. Liệt nữ xưa nay không hai chồng, Sao phải chín châu cố long đong. Chưa chắc người xưa biết ta đó, Trước mắt dòng Tương trôi mênh mông. Người Hát Rong Phủ Vĩnh Bình Cụ mù Thái Bình Mặc áo vải, Con nhỏ dắt tay men bờ sông. Rằng: cụ ăn mày ở ngoại thành, Kiếm tiền độ thân đi hát rong. Thuyền bên có người thích nghe hát, Dắt tay đưa dẫn xuống khoan sạp. Lúc này trong thuyền tối không đèn, Bừa bãi cơm canh đầy đĩa bát. Lần mò sờ soạng ngồi nép bên, Miệng cám ơn, tay giơ mấy lượt. Tay vơ dây miệng hát lời, Vừa đàn vừa hát không chút ngơi. Thanh âm khác lạ nghe không hiểu, Nhưng thấy réo rắt rất êm tai. Nhà thuyền viết chữ bảo ta biết, "Khúc này Thế Dân với Kiến Thành". Hơn chục người xem đều yên lặng, Chỉ thấy gió sông hiu hiu trăng sông thanh. Miệng phì bọt trắng tay mỏi rã, Lại ngồi, ngừng đàn, nói hát xong. Gần một trống canh đàn hát mệt , Tiền thưởng chỉ được dăm sáu đồng. Con nhỏ lại dắt lên khỏi thuyền, Còn quay đầu lại cảm ơn thêm. Ta nhìn chua xót lại buồn đau, Người đời thà chết không thích nghèo. Cứ bảo Trung Hoa toàn no ấm, Ai ngờ người kiểu này cũng nhiều. Người không thấy lệ cung đốn cho sứ đoàn, Thuyền này thuyền nọ đầy gạo thịt. Đoàn người ăn chán còn vứt quăng, Canh thừa cơm nguội chìm đáy nước. Viếng Người Con Hát Thành La Một cành tươi đẹp tựa bồng doanh, Xuân sắc ngời lên động sáu thành. Thiên hạ ai người thương bạc mệnh, Trong mồ dành tự tiếc phù sinh. Phấn son khi sống khôn trang nợ, Trăng gió ngày sau mãi hão danh. Có phải trần gian không kẻ biết, Suối vàng tìm bạn Liễu Kì Khanh. Ngồi Một Mình Trong Thủy Các Trên Sông La Phù Bên dưới thủy các sông nước sâu, Bên trên thủy các người rầu rầu. Mênh mang sớm tối lần mấy đổi, Cuồn cuộn xưa nay lớp sóng trào. Trần thế trăm năm mơ mở mắt, Hồng sơn ngàn dặm nhớ ngang lầu. Bùi ngùi đối bóng mình không nói, Tóc bạc lơi dài vạt áo nâu. Dịch Thơ: Bên dưới thủy các dòng thăm thẳm, Bên trên thủy các người trầm ngâm. Bóng mây mang mác thay hôm sớm, Hoa sóng cuốn dần nỗi cổ kim. Trần thế trăm năm mơ mở mắt, Hồng sơn ngàn dặm dạ bâng khuâng. Ngậm ngùi ngắm cảnh mình không nói, Tóc trắng dài vương vạt áo thâm. Mộ Đỗ Thiếu Lăng Ở Lôi Dương Nghìn năm thuở văn chương đáng bậc thầy, Một lòng mến phục mãi xưa nay. Lỗi Dương thông trắc đâu tìm nhỉ, Rồng cá sông thu nhớ bấy chầy. Thời khác thương nhau suông đổ lệ, Túng nghèo như thế! bởi thơ hay. Lắc đầu chứng cũ còn hay hết, Dưới đất đừng cho lũ quỷ rầy. Qua Sông Hoài Nhớ Thừa Tướng Văn Núi sông phong cảnh vẫn y nguyên, Thừa tướng cô trung vạn thuở truyền. Một vượt sông Hoài đâu đất cũ, Lại qua Giang tả hỏi còn phen. Niềm đau thơ đọc gieo vàng đá, Máu oán khi về hóa đỗ quyên. Nam Bắc đến nay không tục lạ, Bóng chiều man mác ngược xuôi thuyền. Đêm Rằm Tháng Giêng Ở Quỳnh Côi Sân vắng đêm rằm trăng sáng soi, Thuyền quyên vẫn vẹn vẻ xinh tươi. Một vùng xuân hứng nhà ai đấy, Muôn dặm châu Quỳnh tỏ khắp nơi. Hồng Lĩnh không nhà anh chị vắng, Bạc đầu nhiều hận lắm mây trôi. Đường cùng ơn đấy xa tìm gặp, Ba chục năm qua mấy biển trời. Dịch Thơ: Sân vắng rằm giêng trăng sáng đêm, Xinh xinh không đổi vẻ thuyền quyên. Một trời xuân hứng nhà ai thích, Muôn dặm châu Quỳnh một lối in. Hồng lĩnh không nhà anh chị vắng, Bạc đầu nhiều hận tháng năm chuyền. Đường cùng ơn đấy xa tìm gặp, Góc biển chân trời ba chục niên. Miếu Thờ Mã Phục Ba Ở Giáp Thành Sáu chục người ta sức mỏi mòn, Riêng ông yên giáp nhảy bon bon. Được lời vua chúa cười là thích, Quên nỗi anh em thấy cũng buồn. Những tưởng cột đồng lòe gái Việt, Chẳng dè xe ngọc lụy tàn con. Đài mây tên họ sao không để, Cúng tế Phương Nam chết vẫn bòn. Đứng Trên Cầu Hoàng Mai Buổi Chiều Trên cầu Hoàng Mai nắng buổi chiều, Dưới cầu Hoàng Mai nước về Đông. Khí lớn nổi chìm khói biển rộng, Ánh trời mờ tỏ giữa dòng hung. Gối chài tơi ngắm đò trăng lẻ, Sáo mục vang dài lối gió chung. Đất rộng văn chương đâu chả có, Can gì tâm sự rối bòng bong. Đêm Đậu Thuyền Cửa Sông Tam Giang Tây Việt non chồng nước rẽ đôi, Đối nhau hai núi đá chơi vơi. Vượn kêu cành vút nhường không lối, Chó sủa rừng trong biết có người. Ngó khắp núi mây người tuổi tác, Cùng thuyền Hồ Việt thảy thân vui. Mười năm đã baÜng đường quê cũ, Giấc mộng gia hương mấy độ rồi. Dịch Thơ: Tây Việt non chồng nhánh nước phân, Đối nhau hai núi đá muôn tầng. Rừng trong chó sủa hay người có, Vượn hót cành cao tưởng lối ngăn. Ngó khắp núi mây người tuổi tác, Cùng thuyền Hồ Việt thảy vui thân. Mười năm đã baÜng đường quê cũ, Sao được quê hương mộng mấy lần Ốm Nhiều bệnh, nhiều buồn dạ vẩn vơ, Mười tuần bến Quế ốm nằm co. Thần đau vào ngõ chực bắt vía, Chuột đói leo giường gặm sách ta. Chưa cóvăn chương gây nghiệt chướng, Chẳng cho cát bụi vẳng hư không. Tam Lan bên sổ câu ngâm dứt, Man mác tinh thần thoái mái ra. Xuân lạnh, hè oi quấy mãi thân, Năm Hồng nằm nghỉ tháng lần năm. Gương trong sớm lạnh soi già yếu, Cửa trúc đêm im nhức bắp chân. Bệnh tật mười năm không kẻ hỏi, Thuốc tiên chín luyện biết đâu tìm. Cửa ngoài sao được vầng trăng tỏ, Ánh sáng soi liền mọi tối tăm. Xin Ăn Trời xanh chống kiếm ngó ngang tàng, Ba chục năm dòng cát bụi vương. Chữ nghĩa giúp mình không chút ít, Đâu ngờ đói rét để người thương. Dịch Thơ: Gươm dài khẳng khái ngó xanh trên, Lận đận đường bùn ba chục niên. Chữ nghĩa chửa từng giúp chi cả, Ơn người đói rét đỡ nhiều phen. Tự Thán Sống chửa nên danh sức đã suy, Bạc đầu phơ phất gió chiều đi. Nết như chân hạc sao đành cắt, Mệnh tựa lông hồng chẳng biết chi. Trời đất phú cho hình tướng kém, Xuân thu trả lại trắng tu mi. Gió tây lộng cách bồng bay gấp, Rồi nữa lênh đênh đâu chốn về? Tấm thân sáu thước tuổi ba mươi, Lầm lỡ thông minh hại tính trời. Vốn chẳng văn chương căm oán mệnh, Có chi trời đất ghét ghen người. Sách gươm dang dở làm ăn khó, Lần lữa xuân thu tóc bạc rồi. Sao được cạo đầu về với núi, Nằm nghe thông gió vọng mây trôi.
Tài liệu đính kèm: