Tác giả văn học trong chương trình Ngữ văn 6 (Phần 3)

Tác giả văn học trong chương trình Ngữ văn 6 (Phần 3)

Alphonse Daudet là một văn sĩ Pháp vào thế kỷ thứ 19. Sanh tại Nime, miền Nam nước Pháp vào ngày 13 tháng 5 năm 1840. Gia đình đã rời quê lên Lyons khi xí nghiệp tơ vải của cha ông bị suy sụp và phải đóng cửa. Ông theo tiếp tục bậc trung học tại đây nhờ một bổng, nhưng cuối cùng phải bỏ học hẳn khi cuộc hôn nhân của bố mẹ đổ vỡ. Daudet theo chân anh là Ernest đến Paris và được nhận vào làm ký giả cho tờ Figaro.

Ông bắt đầu viết từ năm 14 tuổi, đến năm 18 tuổi Daudet ra thi tập Những người đàn bà đang yêu (Les Amoureuses, 1857) và được đón nhận ngay. Ðộc giả Pháp đặc biệt yêu mến ông qua các tiểu thuyết Thằng nhóc con (Le Petit Chose), gần như là thiên hồi ký của thời niên thiếu đau khổ của chính mình mà đôi khi cũng được ví với nhân vật trong tác phẩm David Copperfield của đại văn hào Charles Dickens của Hoa Kỳ. Sau đó là tập thi tuyển Những lá thư từ cối xay của Tôi (Lettres de Mon Moulin), bao gồm các bài thơ đề tặng cho Marie Rieu xuất bản năm 1866. Ông đạt đến danh vọng trong làng văn chương Pháp qua giải thưởng Văn chương Pháp với quyển Fromont cháu trẻ và cụ Riler (1874) .

 

doc 9 trang Người đăng phuongnga36 Lượt xem 916Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem tài liệu "Tác giả văn học trong chương trình Ngữ văn 6 (Phần 3)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
An-phông-xơ Đô-đê
Alphonse Daudet là một văn sĩ Pháp vào thế kỷ thứ 19. Sanh tại Nime, miền Nam nước Pháp vào ngày 13 tháng 5 năm 1840. Gia đình đã rời quê lên Lyons khi xí nghiệp tơ vải của cha ông bị suy sụp và phải đóng cửa. Ông theo tiếp tục bậc trung học tại đây nhờ một bổng, nhưng cuối cùng phải bỏ học hẳn khi cuộc hôn nhân của bố mẹ đổ vỡ. Daudet theo chân anh là Ernest đến Paris và được nhận vào làm ký giả cho tờ Figaro. 
Ông bắt đầu viết từ năm 14 tuổi, đến năm 18 tuổi Daudet ra thi tập Những người đàn bà đang yêu (Les Amoureuses, 1857) và được đón nhận ngay. Ðộc giả Pháp đặc biệt yêu mến ông qua các tiểu thuyết Thằng nhóc con (Le Petit Chose), gần như là thiên hồi ký của thời niên thiếu đau khổ của chính mình mà đôi khi cũng được ví với nhân vật trong tác phẩm David Copperfield của đại văn hào Charles Dickens của Hoa Kỳ. Sau đó là tập thi tuyển Những lá thư từ cối xay của Tôi (Lettres de Mon Moulin), bao gồm các bài thơ đề tặng cho Marie Rieu xuất bản năm 1866. Ông đạt đến danh vọng trong làng văn chương Pháp qua giải thưởng Văn chương Pháp với quyển Fromont cháu trẻ và cụ Riler (1874) .
Ðôi với các phê bình gia thì trường thiên tiểu thuyết Tartarin vùng Tarascon (1872) gồm ba quyển là tác phẩm quan trọng và đặc sắc nhất của Alphonse Daudet. Những năm sau ông viết nhiều tiểu thuyết cũng thành công không kém, qua các đề tài xã hội của một nước Pháp dân chủ thay thế cho chế độ quân chủ. Ðó là các tác phẩm Những vị vua lưu vong, và Le Nabab, mô tả những nhà triệu phú mới của thế hệ.
Văn phong của Daudet giản dị, nhưng lưu lại cho độc giả những cảm giác nhẹ nhàng, lắng sâu với những câu chuyện kể như chuyện cổ tích, với các nhân vật mà độc giả cảm thấy rất gần gũi. Thế nên các tác phẩm đầu đời của ông được liệt vào khuynh hướng thiên nhiên, còn các tác phẩm sau thuộc vào trường phái hiện thực. Ông diễn tả sự việc một cách xác thực, mà không yếm thế, hay có giọng văn mỉa mai, tàn bạo như các đồng nghiệp cùng thời trước sự thay đổi quá nhanh của thời cuộc. Tập truyện Những chuyện kể ngày thứ hai là tiêu biểu nhất về văn phong của Alphonse Daudet. Ông mất năm 1897 tại Paris.
 Những vì sao, được trích ra từ tập truyện Những lá thư từ cối xay của tôi (Lettres de mon Moulin), là chuyện trẻ con Pháp được học ngày thơ ấu . Những lá thư từ cối xay của tôi là những mẩu chuyện ngắn với những hình ảnh thật hiền hòa, dễ thương của đồng quê: cái cối xây, cánh đồng xanh, suối chảy róc rách, đêm đầy sao, cùng những người chân chất, thật thà, cậu bé chăn dê, ông già Cornille bám vào cái cối xay cuối cùng vào thời kỳ mà những máy xay lúa bằng hơi tới thay các máy xay bằng gió của nhiều thế hệ qua. Sau hơn ba mươi năm tình cờ đọc lại Những vì sao, người dịch vẫn có cùng cảm giác như thuở ngồi ghế nhà trường: một tình cảm dịu dàng, trong sáng của tuổi trẻ, của thiên nhiên. Xin mời độc giả trở về thời kỳ đời sống làng quê mộc mạc nhưng đầy tình người. 
Minh Huệ tên thật: Nguyễn Đức Thái, sinh năm: 1924 mất ngày 11/10/2003. Quê ông ở Bến Thủy, Thành phố Vinh, Nghệ An
Ông sử dụng những bút danh: Minh Huệ, Mai Quốc Minh, Nguyễn Thái 
 Nhà thơ Minh Huệ đã trải qua nhiều lĩnh vực công tác: hội trưởng Hội Sáng tác văn nghệ Liên khu 4; trưởng ban thơ - lý luận phê bình Nhà xuất bản Văn Học; trưởng Ty văn hóa Nghệ An; bí thư Đảng đoàn kiêm chủ tịch Hội Văn học nghệ thuật Nghệ An; hội viên sáng 
lập Hội Nhà văn Việt Nam (1957); ủy viên Ủy ban Trung ương Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam. Huy hiệu 50 năm tuổi Đảng; Huân chương kháng chiến chống Mỹ hạng nhất; Huy chương vì sự nghiệp văn học nghệ thuật Việt Nam.
Minh Huệ sáng tác ở các thể loại: thơ, bút ký, tiểu thuyết, tiểu luận. Các tác phẩm chính:
* Tiếng hát quê hương (1959)
* Đất chiến hào, (1970)
* Mùa xanh đến (1972)
* Đêm nay Bác không ngủ (1985)
* Rừng xưa rừng nay (1962)
* Ngọn cờ Bến Thủy (truyện ký, 1974-1979)
* Người mẹ và mùa xuân (truyện ký, 1981)
* Phút bi kịch cuối cùng (1990)
* Thưởng thức thơ viết về Bác Hồ (1992)
* Dòng máu Việt Hoa (1954)
Tố Hữu
Tố Hữu (tên thật là Nguyễn Kim Thành; 1920–2002) là một nhà thơ tiêu biểu của dòng thơ cách mạng Việt Nam.
 Tiểu sử
Ông sinh tại Hội An, tỉnh Quảng Nam. Cha ông là một nhà nho nghèo, không đỗ đạt và phải kiếm sống rất chật vật nhưng lại thích thơ, thích sưu tập ca dao tục ngữ. Ông đã dạy Tố Hữu làm thơ cổ. Mẹ ông cũng là con của một nhà nho, thuộc nhiều ca dao dân ca Huế và rất thương con. Cha mẹ cùng quê hương Huế đã góp phần nuôi dưỡng tâm hồn thơ Tố Hữu
. 
Mẹ ông mất vào năm ông lên 12 tuổi. Năm 13 tuổi, ông vào trường Quốc học (Huế). Tại đây, được trực tiếp tiếp xúc với tư tưởng của Karl Marx, Friedrich Engels, Vladimir Ilyich Lenin, Maxim Gorky... qua sách báo, kết hợp với sự vận động của các đảng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam bấy giờ (Lê Duẩn, Phan Đăng Lưu, Nguyễn Chí Diểu), Nguyễn Kim Thành sớm tiếp cận với ý tưởng cộng sản. Ông gia nhập Đoàn thanh niên và được kết nạp vào Đảng Cộng sản năm 1938.
Tháng 4 năm 1939, ông bị bắt, bị tra tấn và giam tại nhiều nhà tù miền Trung như Lao Bảo, Huế, Ban Mê Thuột...
 Cuối năm 1941, ông vượt ngục về hoạt động bí mật ở Hậu Lộc, Thanh Hóa. Khi Cách mạng tháng Tám bùng nổ, ông là chủ tịch Ủy ban khởi nghĩa của thành phố Huế. Năm 1946, ông là bí thư Tỉnh ủy Thanh Hóa. Cuối 1947, ông lên Việt Bắc làm công tác văn nghệ, tuyên huấn. Từ đó, ông được giao những chức vụ quan trọng trong công tác văn nghệ, trong bộ máy lãnh đạo Đảng và nhà nước:
* 1948: Phó Tổng thư ký Hội Văn nghệ Việt Nam;
* 1963: Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Việt Nam;
* Tại đại hội Đảng lần II (1951): Ủy viên dự khuyết Trung ương; 1955: Ủy viên chính thức;
* Tại đại hội Đảng lần III (1960): vào Ban Bí thư;
* Tại đại hội Đảng lần IV (1976): Ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị, Bí thư Ban chấp hành Trung ương, Trưởng ban Tuyên truyền Trung ương, Phó Ban Nông nghiệp Trung ương;
* Từ 1980: Ủy viên chính thức Bộ Chính trị;
* 1981: Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, rồi Phó Chủ tịch thứ nhất Hội đồng Bộ trưởng cho tới năm 1986. Ngoài ra ông còn là Bí thư Ban chấp hành Trung ương.Năm 1958, ông tham gia dập tắt phong trào Nhân văn-Giai phẩm của các văn nghệ sĩ miền Bắc.
 Năm 1996, ông được Nhà nước phong tặng Giải thưởng Hồ Chí Minhvề VHNT đợt 1
 Ông từng đảm nhiệm nhiều chức vụ khác như Hiệu trưởng Trường Nguyễn Ái Quốc, Trưởng Ban Thống nhất Trung ương, Trưởng Ban Tuyên huấn Trung ương, Trưởng Ban Khoa giáo Trung ương. Ông còn là Đại biểu Quốc hội khoá II và VII.
Ông mất 9h15' ngày 9 tháng 12 năm 2002 tại Bệnh viện 108. 
Sự nghiệp sáng tác của Tố Hữu
Các tác phẩm
* Từ ấy (1946)
* Việt Bắc (1954)
* Gió lộng (1961)
* Ra trận (1962-1971)
* Máu và Hoa (1977)
* Một tiếng đờn (1992)
* Ta với Ta (1999). 
Giải thưởng
* Giải nhất giải thưởng văn học Hội Văn nghệ Việt Nam 1954-1955 (tập thơ Việt Bắc)
* Giải thưởng văn học ASEAN (1996)
* Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học – nghệ thuật (đợt 1, 1996)
Phong cách nghệ thuật
Tố Hữu thường sáng tác với khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Thơ Tố Hữu thường thể hiện những vấn đề lớn về Đảng, về đất nước và thường hướng đến khơi dậy niềm vui, niềm tin, hướng tới tương lai. Tuy nhiên ông không tránh khỏi sa đà vào việc ca ngợi một chiều Đảng, Nhà nước. Nhiều lúc để phù hợp với tình hình, thơ Tố Hữu trở thành những lời kêu gọi, hiệu triệu mà nhiều khi cảm xúc không theo kịp, khiến tác phẩm mất hết cả chất thơ.
 Thơ Tố Hữu là thơ trữ tình chính trị. Ông có khả năng "thơ hoá" các vấn đề chính trị "Tố Hữu đã đưa thơ chính trị lên trình độ là thơ rất đỗi trữ tình." (Xuân Diệu. Máu và Hoa, con đường của nhà thơ Tố Hữu (tiếng Pháp). Liên hiệp các nhà xuất bản, Paris, 1975)
Thơ Tố Hữu, dễ cảm, dễ tiếp thu, nặng về tính truyền thống hơn là sự tìm tòi đổi mới theo hướng hiện đại hoá. Tố Hữu rất thường dùng các biện pháp tu từ quen thuộc trong ca dao dân ca, và nhiều hình ảnh ước lệ cũng rất quen. Giọng thơ thường là giọng tâm tình, ngọt ngào, ảnh hưởng nhiều bởi dân ca, nhất là dân ca Huế.
 Thơ Tố Hữu ít có sự gọt giũa về nghệ thuật, chủ yếu là thể hiện tình cảm, với giọng thơ ngọt ngào, tâm tình. Đây là một nét thơ đặc trung của Tố Hữu, có điều lắm khi "ít gọt giũa" cũng là nhược điểm chí mạng của ông.
Trần Đăng Khoa
 Trần Đăng Khoa (sinh ngày 24 tháng 4 năm 1958), quê làng Trực Trì, xã Quốc Tuấn, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương là một nhà thơ, nhà báo, biên tập viên Tạp chí Văn nghệ Quân đội, hội viên của Hội Nhà văn Việt Nam. Hiện là trưởng ban Văn nghệ Đài tiếng nói Việt Nam
Tiểu sử
Từ nhỏ ông đã được nhiều người cho là thần đồng thơ văn. Lên 8 tuổi, ông đã có thơ được đăng báo. Năm 1968, khi mới 10 tuổi, tập thơ đầu tiên của ông Từ góc sân nhà em (tập thơ tiếp theo là Góc sân và khoảng trời) được nhà xuất bản Kim Đồng xuất bản. Có lẽ tác phẩm nhiều người biết đến nhất của ông là bài thơ Hạt gạo làng ta, sáng tác năm 1968, được thi sĩ Xuân Diệu hiệu đính, sau được nhạc sĩ Trần Viết Bính phổ nhạc (1971).
 Trần Đăng Khoa nhập ngũ tại Trường Lục quân Việt Nam, làm lính hải quân. Sau đó ông theo học Trường Viết văn Nguyễn Du và được cử sang học tại Viện Văn học Thế giới mang tên M.Goocky thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Nga. Khi trở về nước ông làm biên tập viên Văn nghệ quân đội. Từ tháng 6 năm 2004, khi đã mang quân hàm thượng tá Quân đội nhân dân Việt Nam, ông chuyển sang phụ trách Ban văn nghệ Đài tiếng nói Việt Nam.
 Trần Đăng Khoa không có nhiều tác phẩm, và danh hiệu "thần đồng thơ trẻ" của nhà thơ thời thơ ấu không hề liên quan hay được nối tiếp đến quãng đời về sau khi nhà thơ vào lính, theo học ở Nga, khi về nước làm biên tập viên, làm báo. Thi hứng một thời, hiển nhiên, không là động lực cho xúc cảm khi tác giả đã cao tuổi. Những tác phẩm lớn nhất của Trần Đăng Khoa còn được mọi người biết đến:
* Từ góc sân nhà em, 1968.
* Góc sân và khoảng trời, tập thơ, 1968, tái bản khoảng 30 lần, được dịch và xuất bản tại nhiều nước trên toàn thế giới
* Khúc hát người anh hùng, trường ca, 1974.
* Bên cửa sổ máy bay, tập thơ, 1986.
* Chân dung và đối thoại, tiểu luận phê bình, Hà Nội: Nxb Thanh niên, 1998, tái bản nhiều lần, gây tiếng vang trên văn đàn những năm bế tắc của phê bình văn học Việt Nam
 Ông 3 lần được tặng giải thưởng thơ của báo Thiếu niên Tiền phong (các năm 1968, 1969, 1971), Giải nhất báo Văn nghệ (1982) và Giải thưởng Nhà nước (năm 2000).
Con người và cuộc đời Nguyễn Tuân
Nguyễn Tuân (10 tháng 7 năm 1910 – 28 tháng 7 năm 1987) là một nhà văn nổi tiếng của Việt Nam. Sách giáo khoa hiện hành xếp ông vào một trong 9 tác giả của văn học Việt Nam hiện đại. Ông viết văn với một phong cách t ... 58, ông giữ chức Tổng thư kí Hội Văn nghệ Việt Nam.
 Các tác phẩm chính sau cách mạng của Nguyễn Tuân là tập bút ký Sông Đà (1960), một số tập ký chống Mỹ (1965-1975) và nhiều bài tùy bút về cảnh sắc và hương vị đất nước.
 Nguyễn Tuân mất tại Hà Nội vào năm 1987, để lại một sự nghiệp văn học phong phú với những trang viết độc đáo và đầy tài hoa. Năm 1996 ông được Nhà nước Việt Nam truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (đợt I).
Vài nét tính cách
* Nguyễn Tuân yêu Việt Nam với những giá trị văn hóa cổ truyền của dân tộc. Ông yêu tha thiết tiếng Việt, những kiệt tác văn chương của Nguyễn Du, Đoàn Thị Điểm, Tú Xương, Tản Đà..., những nhạc điệu hoặc đài của các lối hát ca trù hoặc dân dã mà thiết tha, những nét đẹp rất riêng của Việt Nam.
* Ở Nguyễn Tuân, ý thức cá nhân phát triển rất cao. Ông viết văn trước hết để khẳng định cá tính độc đáo của mình, tự gán cho mình một chứng bệnh gọi là "chủ nghĩa xê dịch". Lối sống tự do phóng túng của ông không phù hợp với chế độ thuộc địa.
* Nguyễn Tuân là con người rất mực tài hoa. Tuy chỉ viết văn nhưng ông còn am hiểu nhiều môn nghệ thuật khác: hội hoạ, điêu khắc, sân khấu, điện ảnh... Ông còn là một diễn viên kịch nói và là một diễn viên điện ảnh đầu tiên ở Việt Nam. Ông thường vận dụng con mắt của nhiều ngành nghệ thuật khác nhau để tăng cường khả năng quan sát, diễn tả của nghệ thuật văn chương.
* Nguyễn Tuân là một nhà văn biết quý trọng thật sự nghề nghiệp của mình. Đối với ông, 
nghệ thuật là một hình thái lao động nghiêm túc, thậm chí "khổ hạnh" và ông đã lấy chính cuộc đời cầm bút hơn nửa thế kỷ của mình để chứng minh cho quan niệm ấy.
 Tác phẩm Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám chủ yếu xoay quanh ba đề tài: "chủ nghĩa xê dịch", vẻ đẹp "vang bóng một thời", và "đời sống truỵ lạc".
 Nguyễn Tuân đã tìm đến lí thuyết "chủ nghiã xê dịch" này trong tâm trạng bất mãn và bất lực trước thời cuộc. Nhưng viết về "chủ nghĩa xê dịch", Nguyễn Tuân lại có dịp bày tỏ tấm lòng gắn bó tha thiết của ông đối với cảnh sắc và phong vị của đất nước mà ông đã ghi lại được bằng một ngòi bút đầy trìu mến và tài hoa (Một chuyến đi).
 Không tin tưởng ở hiện tại và tương lai, Nguyễn Tuân đi tìm vẻ đẹp của quá khứ còn "vang bóng một thời" ông mô tả vẻ đẹp riêng của thời xưa với những phong tục đẹp, những thú tiêu dao hưởng lạc lành mạnh và tao nhã. Tất cả được thể hiện thông qua những con người thuộc lớp người nhà Nho tài hoa bất đắc chí, tuy đã thua cuộc nhưng không chịu làm lành với xã hội thực dân (như Huấn Cao trong Chữ người tử tù).
 Nguyễn Tuân cũng hay viết về đề tài đời sống truỵ lạc. Ở những tác phẩm này, người ta thường thấy có một nhân vật "tôi" hoang mang bế tắc. Trong tình trạng khủng hoảng tinh thần ấy, người ta thấy đôi khi vút lên từ cuộc đời nhem nhuốc, phàm tục niềm khao khát một thế giới tinh khiết, thanh cao (Chiếc lư đồng mắt cua).
 Từ sau Cách mạng tháng Tám 1945, ông chân thành đem ngòi bút phục vụ cuộc chiến đấu của dân tộc, nhưng Nguyễn Tuân luôn luôn có ý thức phục vụ trên cương vị của một nhà văn, đồng thời vẫn muốn phát huy cá tính và phong cách độc đáo của mình. Ông đã đóng góp cho nền văn học mới nhiều trang viết sắc sảo và đầy nghệ thuật ca ngợi quê hương đất nước, ca ngợi nhân dân lao động trong chiến đấu và sản xuất.
Phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân
Nguyễn Tuân có một phong cách nghệ thuật rất độc đáo và sâu sắc.
 Trước Cách mạng tháng Tám, phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân có thể thâu tóm trong một chữ "ngông". Thể hiện phong cách này, mỗi trang viết của Nguyễn Tuân đều muốn chứng tỏ tài hoa uyên bác. Và mọi sự vật được miêu tả dù chỉ là cái ăn cái uống, cũng được quan sát chủ yếu ở phương diện văn hoá, mĩ thuật.
 Trước Cách mạng tháng Tám, ông đi tìm cái đẹp của thời xưa còn vương sót lại và ông gọi là Vang bóng một thời. Sau Cách mạng, ông không đối lập giữa quá khứ, hiện tại và tương lai. Văn Nguyễn Tuân thì bao giờ cũng vậy, vừa đĩnh đạc cổ kính, vừa trẻ trung hiện đại.
 Nguyễn Tuân học theo "chủ nghĩa xê dịch". Vì thế Ông là nhà văn của những tính cách phi thường, của những tình cảm, cảm giác mãnh liệt, của những phong cảnh tuyệt mĩ, của gió, bão, núi cao rừng thiêng, thác ghềnh dữ dội...
 Nguyễn Tuân cũng là một con người yêu thiên nhiên tha thiết. Ông có nhiều phát hiện hết sức tinh tế và độc đáo về núi sông cây cỏ trên đất nước mình. Phong cách tự do phóng túng và ý thức sâu sắc về cái tôi cá nhân đã khiến Nguyễn Tuân tìm đến thể tuỳ bút như một điều tất yếu.
 Nguyễn Tuân còn có đóng góp không nhỏ cho sự phát triển của ngôn ngữ văn học Việt Nam.
 Sau Cách mạng tháng Tám, phong cách Nguyễn Tuân có những thay đổi quan trọng. Ông vẫn tiếp cận thế giới, con ngừơi thiên về phương diện văn hóa nghệ thuật, nghệ sĩ, nhưng giờ 
đây ông còn tìm thấy chất tài hoa nghệ sỹ ở cả nhân dân đại chúng. Còn giọng khinh bạc thì chủ yếu chỉ là để ném vào kẻ thù của dân tộc hay những mặt tiêu cực của xã hội.
Tác phẩm
* Ngọn đèn dầu lạc (1939)
* Vang bóng một thời (1940)
* Chiếc lư đồng mắt cua (1941)
* Tàn đèn dầu lạc (1941)
* Một chuyến đi (1941)
* Tùy bút (1941)
* Tóc chị Hoài (1943)
* Tùy bút II (1943)
* Nguyễn (1945)
* Chùa Đàn (1946)
* Đường vui (1949)
* Tình chiến dịch (1950)
* Thắng càn (1953)
* Chú Giao làng Seo (1953)
* Đi thăm Trung Hoa (1955)
* Tùy bút kháng chiến (1955)
* Tùy bút kháng chiến và hòa bình (1956)
* Truyện một cái thuyền đất (1958)
* Sông Đà (1960)
* Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi (1972)
* Ký (1976)
* Tuyển tập Nguyễn Tuân (tập I: 1981, tập II: 1982)
* Yêu ngôn (2000, sau khi mất)
 Có người nói, Nguyễn Tuân là một cái định nghĩa về người sĩ. Đối với ông, văn chương trước hết phải là văn chương, nghệ thuật trước hết phải là nghệ thuật, và đã là nghệ thuật thì phải có phong cách độc đáo. Nhưng Nguyễn Tuân, xét từ bản chất, không phải là người theo chủ nghĩ hình thức. Tài phải đi đôi với tâm. Ấy là "thiên lương" trong sạch, là lòng yêu nước thiết tha, là nhân cách cứng cỏi trước uy quyền phi nghĩa và đồng tiền phàm tục.
 Người đọc mến Nguyễn Tuân về tài, nhưng còn trọng ông về nhân cách ấy nữa. Văn Nguyễn Tuân, tuy thế, không phải ai cũng ưa thich. Vả lại một số bài viết của ông cũng có nược điểm: mạch văn quá phóng túng theo lối tùy hứng, khó theo dõi; nhiều đoạn tham phô bày kiến thức và tư liệu khiến người đọc cảm thấy nặng nề... 
Thép Mới
Thép Mới: tên thật là Hà Văn Lộc sinh năm 1925, mất năm 1991. Quê: phường Quảng An, quận Tây Hồ, Hà Nội
Các bút danh: Thép Mới, Phượng Kim, Hồng Châu.
Thể loại sở trường: ký.
Tiểu sử.
- Năm 1938, vào Đoàn Thanh niên Dân chủ ở Nam Định. 
- Từ năm 1944 đến 8/1945, tham gia Thanh niên Cứu quốc. Bút danh Thép Mới xuất hiện lần đầu tiên trên báo "Cờ Giải phóng" với bài "Trung thu độc lập". 
- Tháng 12.1946, công tác ở báo "Cứu quốc". 
- Năm 1947, biên tập viên, phóng viên báo "Sự thật". 
- Từ tháng 2.1951, công tác ở báo "Nhân dân". 
- Năm 1962, tham gia Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam. 
- Năm 1964, đặc phái viên của báo "Nhân dân" ở chiến trường Miền Nam. 
- Từ 1968 đến 1971, uỷ viên Ban Tuyên huấn Trung ương Cục Miền Nam, tổng biên tập báo "Giải phóng". 
- Từ 1972, phó tổng biên tập báo "Nhân dân". 
- Từ 1988 đến 1991, bình luận viên cao cấp báo "Nhân dân", công tác tại Thành phố Hồ Chí Minh. 
 Vào tuổi 20, Thép Mới tham gia phong trào sinh viên cứu quốc, vǎn hóa cứu quốc và tổng khởi nghĩa ở Hà Nội. Cùng với Nguyễn Huy Tưởng, Thôi Hữu, Thép Mới trở thành nhà báo cách mạng chuyên nghiệp của Đảng. Từ bài báo đầu tiên Vǎn chương và thời cuộc đǎng trên báo Tự Trị của Tổng hội sinh viên Việt Nam, số tháng 6 nǎm 1945 ký tên Hà Vǎn Lộc, đến bài Tân trào nhập vào Hà Nội - bài viết cuối cùng của Thép Mới đǎng báo Nhân Dân giữa tháng 8/1991, Thép Mới luôn là một phóng viên thực thụ. Anh không hứng thú chức tước, tiền bạc càng không màng.
 Khi được hỏi: Tại sao lại lấy bút danh là Thép Mới? Ông đã trả lời: "Thép là Thép đã tôi thế đấy cuốn sách mình dịch ra tiếng Việt của nhà vǎn Xô Viết N.A.Ô-xtơ-rôp-ki; còn Mới là không cũ.
 Cả cuộc đời nửa thế kỷ cầm bút, Thép Mới luôn gắn bó máu thịt với cách mạng, với nhân dân, buồn vui với số phận thǎng trầm của cách mạng, của nhân dân.Hiện nay ở Sài Gòn có một đường phố mang tên Thép Mới gần ngã tư Bẩy Hiền, nơi Mậu Thân 68 anh đã từng sống và chiến đấu như một người lính thực sự.
Các tác phẩm:
- Kháng chiến sau luỹ tre, trên đồng lúa (1947)
- Ý nghĩ người phóng viên kháng chiến (1948)
- Trách nhiệm (1951)
- Trường Sơn hùng tráng (1967)
- Điện Biên Phủ, một danh từ Việt Nam (1964)
- Cây tre Việt Nam
- Sáng đỉnh Trường Sơn
Giải thưởng: Huân chương Độc lập hạng nhì và nhiều huân, huy chương cao quý khác.
Ilia Grigor'evich Erenburg
Ilia Grigor'evich Erenburg; sinh năm 1891 mất năm 1967, nhà văn Nga Xô Viết, nhà hoạt động xã hội. Ông đã sống nhiều năm ở Pháp, Đức, Tây Ban Nha; làm phóng viên trong chiến tranh; đại diện cho các nhà văn Liên Xô tại các hội nghị quốc tế bảo vệ hoà bình, văn hoá, chống chủ nghĩa phát xít. Phó chủ tịch Hội đồng Hoà bình Thế giới (1950), đại biểu Xô Viết Tối cao Liên Xô (1950).
Các tác phẩm: 
-Tiểu thuyết Khuliô Khurenitô (1922), Pari sụp đổ (1941) phê phán xã hội tư sản Châu Âu và chiến tranh đế quốc. 
-Tiểu thuyết Ngày hôm sau (1933) viết về cuộc sống trên đất nước Xô Viết, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, ca ngợi con người mới. 
-Tiểu thuyết Bão táp (1946 - 47) viết về Chiến tranh thế giới II (1939 - 45). 
Êrenbua còn có nhiều tập thơ, tiểu luận, phê bình, chân dung văn học. Tập hồi kí nghệ thuật Con người, năm tháng, cuộc đời (1961 - 65) gồm 6 tập, ghi lại những quan sát và cảm xúc qua nhiều năm hoạt động văn học, xã hội. 
Các giải thưởng
- Giải thưởng Nhà nước Liên Xô (1942, 1948). 
- Giải thưởng Hoà bình quốc tế Lênin (1952).
Nguyễn Duy Khán
Tên khai sinh: Nguyễn Duy Khán. Sinh ngày 6 tháng 8 năm 1934. Quê gốc xã Nam Sơn huyện Quế võ, tỉnh Bắc Ninh. Mất ngày 29 tháng 1 năm 1993 tại Hải Phòng. Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam
 Duy Khán sinh trưởng trong một gia đình nông dân nghèo, học dở dang trong vùng tạm chiếm, trốn ra vùng tự do nhập ngũ. Trước ở bộ binh, sau về quân chủng Phòng không – không quân. Từng làm giáo viên văn hoá trong quân đội, sau chuyển làm phóng viên phát thanh quân đội. Về tạp chí Văn nghệ Quân đội làm biên tập viên, phóng viên năm 1972.
Tác phẩm đã xuất bản
- Trận mới (Thơ, 1972)
- Tâm sự người đi (Thơ, 1987)
- Tuổi thơ im lặng (Truyện, 1986)
Giải thưởng
- Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam 1987 cho tác phẩm Tuổi thơ im lặng
- Giải thưởng Nhà nước về Văn học - Nghệ thuật năm 2007

Tài liệu đính kèm:

  • docTAC GIA TRONG CHUONG TRINH NGU VAN 6 PHAN 3.doc