Như chúng ta đã biết nhiệm vụ và mục tiêu cơ bản của giáo dục trong thời kì đổi mới là nhằm xây dựng, đào tạo những con người, những thế hệ có năng lực tiếp thu những tinh hoa văn hóa của nhân loại. Phát huy tiềm năng dân tộc và tính tích cực cá nhân làm chủ tri thức, có kĩ năng thực hành giỏi, có tư duy sáng tạo, có tác phong công nghiệp, có tính tổ chức, tính kỉ luật, sức khỏe để xây dựng và bảo vệ tổ quốc, thực hiện công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.
Để đạt được nhiệm vụ trên thì giáo dục phải được coi là nhiệm vụ của toàn đảng, toàn dân, toàn xã hội, trong đó nhà trường giữ vai trò quan trọng nhất.
Với nhà trường phổ thông ngoài việc trang bị cho học sinh những tri thức, phẩm chất của người lao động mới còn phải trang bị cho các em tình yêu thương, tinh thần hợp tác, đoàn kết và lòng nhân ái. Trong đó việc trang bị cho HS những tri thức khoa học cũng là một nhiệm vụ cơ bản vì tri thức là chìa khóa mở cửa cho tất cả các bộ môn khoa học.
Mỗi môn học trong nhà trường đều có đặc thù riêng, một phương pháp nhận thức. Đặc điểm bộ môn và phương pháp nhận thức có nghĩa hết sức quan trọng trong quá trình tìm tòi và thiết kế những giải pháp dạy và học bộ môn.
Đối với môn nhữ văn : Là một môn học có vị trí đặc biệt trong việc thực hiện mục tiêu chung của nhà trường THCS . Góp phần hình thành con người có ý thức tu dưỡng, biết yêu thương, quý trọng gia đình, bạn bè, có lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, biết hướng tới những tư tưởng, tình cảm cao đẹp như lòng nhân ái, tinh thần tôn trọng lẽ phải, sự công bằng, lòng căm ghét cái sấu cái ác. Bước đầu có năng lực cảm thụ các giá trị chân, thiện, mĩ trong nghệ thuật, trước hết là trong văn học, có năng lực thực hành và năng lực sử dụng tiếng việt như một công cụ để tư duy và giao tiếp.
Đề tài sáng kiến kinh nghiệm Vận dụng phương pháp dạy và học tích cực vào dạy tiết ôn tập tiếng việt Lời nói đầu Như chúng ta đã biết nhiệm vụ và mục tiêu cơ bản của giáo dục trong thời kì đổi mới là nhằm xây dựng, đào tạo những con người, những thế hệ có năng lực tiếp thu những tinh hoa văn hóa của nhân loại. Phát huy tiềm năng dân tộc và tính tích cực cá nhân làm chủ tri thức, có kĩ năng thực hành giỏi, có tư duy sáng tạo, có tác phong công nghiệp, có tính tổ chức, tính kỉ luật, sức khỏe để xây dựng và bảo vệ tổ quốc, thực hiện công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Để đạt được nhiệm vụ trên thì giáo dục phải được coi là nhiệm vụ của toàn đảng, toàn dân, toàn xã hội, trong đó nhà trường giữ vai trò quan trọng nhất. Với nhà trường phổ thông ngoài việc trang bị cho học sinh những tri thức, phẩm chất của người lao động mới còn phải trang bị cho các em tình yêu thương, tinh thần hợp tác, đoàn kết và lòng nhân ái. Trong đó việc trang bị cho HS những tri thức khoa học cũng là một nhiệm vụ cơ bản vì tri thức là chìa khóa mở cửa cho tất cả các bộ môn khoa học. Mỗi môn học trong nhà trường đều có đặc thù riêng, một phương pháp nhận thức. Đặc điểm bộ môn và phương pháp nhận thức có nghĩa hết sức quan trọng trong quá trình tìm tòi và thiết kế những giải pháp dạy và học bộ môn. Đối với môn nhữ văn : Là một môn học có vị trí đặc biệt trong việc thực hiện mục tiêu chung của nhà trường THCS . Góp phần hình thành con người có ý thức tu dưỡng, biết yêu thương, quý trọng gia đình, bạn bè, có lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, biết hướng tới những tư tưởng, tình cảm cao đẹp như lòng nhân ái, tinh thần tôn trọng lẽ phải, sự công bằng, lòng căm ghét cái sấu cái ác. Bước đầu có năng lực cảm thụ các giá trị chân, thiện, mĩ trong nghệ thuật, trước hết là trong văn học, có năng lực thực hành và năng lực sử dụng tiếng việt như một công cụ để tư duy và giao tiếp. Qua nghiên cứu tài liệu và thực tế giảng dạy tôi mạnh dạn đưa ra một số phương pháp để dạy tốt một tiết ôn tập Tiếng Việt. Đề tài này cũng mới chỉ là ý kiến chủ quan của cá nhân tôi chắc chắn có nhiều thiếu sót. Tôi rất mong nhận được các ý kiến góp ý của cấp trên và đồng nghiệp để đề tài được hoàn thiện hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn! I. Phần mở đầu I.1. Lý do chọn đề tài Bộ môn Ngữ văn nói chung, phân môn Tiếng Việt nói riêng là bộ môn quan trọng trong hệ thống chương trình giảng dạy ở trường THCS. Nó cung cấp cho học sinh vốn ngôn ngữ. Một công cụ giáo tiếp giúp cho học sinh nói đúng viết đúng tiến tới nói hay và viết hay tiếng Việt. Mặt khác dạy Tiếng Việt là dạy tiếng mẹ đẻ, giúp các em thêm hiểu và và yêu tiếng mẹ đẻ. Với phân môn Tiếng Việt nội dung dạy học có khá nhiều vấn đề mới không chỉ cung cấp kiến thức, cung cấp vốn từ để học sinh có thể dùng từ viết câu và tiên kết câu trong văn bản mà còn có khả năng vận dụng rộng rãi trong việc phân tích văn bản trong phân môn Văn và phân môn Tập làm văn. Chương trình Ngữ văn 9 giành một thời lượng cho các phần ôn tập, tổng kết, tổng kết,kiểm tra không chỉ ôn tập phần tổng kết những vấn đề ôn tập của lớp 9 mà của cả cấp học, ở học kì I, về tiếng việt số tiết ôn tập, tổng kết và kiểm tra gần bằng số tiết học bài mới. Phối hợp một cách hợp lí có hiệu quả việc ôn tập tổng kết và cung cấp kiến thức mới là một đòi hỏi khắt khe đối với việc tổ chức dạy- học Ngữ văn 9 ( cuối bậc THCS, cuối kì II của chương trình thay sách) Với phạm vi chương trình này tôi xin đề cập đến việc: nghiên cứu tìm ra những phương pháp để dạy tốt một bài ôn tập Tiếng Việt cho học sinh THCS nói chung và học sinh lớp 9 nói riêng. Dạy là vấn đề nan giải mà trong quá trình ôn tập ( giảng dạy ) chúng tôi đã gặp phải rất nhiều khó khăn cả về phía giáo viên và học sinh. I.1.1. Cơ sở lí luận: Trong sách lý luận dạy và học có nhiều định nghĩa khác nhau về phương pháp dạy học( PPDH) mỗi định nghĩa nhấn mạnh một vài khía cạnh nào đó phản ánh sự phát triển nhận thức của các nhà khoa học, các nhà sư phạm về bản chất của khái niệm PPDH ở một thời kỳ khác nhau. Hiện nay toàn nghành Giáo dục và đào tạo đang nỗ lực đổi mới PPDH theo hướng phát huy tính tích cực của HS trong hoạt động học tập, theo tôi định nghĩa sau được xem là phù hợp: " Phương pháp dạy học là cách thức hoạt động của giáo viên trong chỉ đạo, tổ chức các hoạt động học tập nhằm giúp HS chủ động đạt các mục tiêu dạy học." Trong tiến trình một tiết dạy thì nội dung và phương pháp dạy học bao giờ cũng gắn bó với nhau mỗi nội dung đòi hỏi một phương pháp thích hợp. Các kĩ năng giao tiếp không thể được hình thành và phát triển bằng con đường truyền giảng thụ động. Muốn phát triển kĩ năng này học sinh phải được hoạt động trong môi trường giao tiếp dưới sự hướng dẫn của thầy (cô).Các kiến thức về ngôn ngữ văn học, văn hóa xã hội có thể được tiếp thu qua lời giảng, học sinh chỉ làm chủ được kiến thức khi các em chiếm lĩnh chúng bằng chính hoạt động có ý thức của mình. Cũng như vậy những tư tưởng tình cảm nhân cách tốt đẹp có thể được hình thành chắc chắn thông qua sự rèn luyện, thông qua thực tế ( học đi đôi với hành ,lí thuyết gắn với bài tập luyện tập). Đó là những lí do cắt nghĩa sự ra đời của phương pháp dạy học mới. Phương pháp tích cực hóa hoạt động của người học: lấy học sinh làm trung tâm trong đó giáo viên là người tổ chức hoạt động của học sinh, mỗi học sinh đều được tham gia hoạt động, đều được bộc lộ mình và phát triển rèn luyện... I.1.2. Cơ sở thực tiễn: Nghị quyết TW 4 khóa VII/1993 đã đề ra nhiệm vụ " đổi mới phương pháp dạy học ở tất cả các cấp học bậc học " Nghị quyết TW2 khóaVII ( 12-1996)nhận định : Phương pháp giáo dục đào tạo chậm được đổi mới, chưa phát huy được tính tích cưc, chủ động sáng tạo của người học" Trong những năm gần đây các trường THCS đã xuất hiện ngày càng nhiều tiết dạy tốt áp dụng một số phương tiện dạy học hiện đại như dạy học bằng công nghệ thông tin, phát huy được tính tích cực, chủ động chiếm lĩnh trí thức của học sinh. Tuy nhiên vẵn còn không ít trường hợp dạy theo phương pháp thầy đọc trò chép hoặc giảng giải xen kẽ vấn đáp. Đứng trước một tiết ôn tập giáo viên ngữ văn thường hay mắc phải sai sót về thời gian cho tiết học tức là chưa xác định được thời gian giành cho lý thuyết và vận dụng cho học sinh thực hành là bao nhiêu. Trong khi đó thời gian thì hạn hẹp, kết quả là học sinh chỉ học một cách thụ động như vậy đi ngược với phương pháp đổi mới dạy học hiện nay. Nguyên nhân: - Học sinh vẫn quen lối học thụ động ( đối với học sinh lớp 6 ), gây khó khăn cho việc áp dụng phương pháp mới vào dạy học. - Nhiều giáo viên còn lúng túng khi vận dụng phương pháp mớivào bài dạy. - Đối với tiết ôn tập GVchưa áp dụng được nhiều phương pháp dạy học có sáng tạo, linh hoạt, kích thích để các em phát triển tư duyvà ngôn ngữ trau rồi vốn tiếng việt. Vậy làm thế nào để có một tiết ôn tập Tiếng việt đạt hiệu quả đó là vấn đề mà rất nhiều giáo viên Ngữ văn quan tâm. I.2.Mục đích nghiên cứu: Dạy bài ôn tập Tiếng Việt mục đích là: - Hệ thống hóa kiến thức tiếng Việt đã học trong học kì I( hoặc học kì II) của các lớp. - Kết hợp với các bài tập làm văn và các văn bản văn đã học để rèn luyện các kĩ năng tổng hợp về sử dụng tiếng Việt trong nói và viết. I.3.Thời gian- địa điểm: I.3.1. Thời gian: Thời gian thực hiện đề tài trong năm học trên cơ sở của những tiết ôn tập cụ thể ( ôn tập tiếng Việt 9) I.3.2. Địa điểm: ----------------------------------- I.3.3. Phạm vi đề tài: Một số phương pháp dạy tiết ôn tập Tiếng việt nói chung và tiết ôn tập Tiếng Việt 9 nói riêng. I.3.3.1 Giới hạn đối tượng nghiên cứu. Đối tượng nghiên cứu: HS - THCS I.3.3.2. Giới hạn về địa bàn nghiên cứu Nơi nghiên cứu trường THCS Tiên Lãng- Tiên yên- QN I.3.3.3. Giới hạn về khách thể khảo sát Đối tượng là học sinh lớp 9 I.4. Đóng góp mới về mặt lý luận, về mặt thực tiễn: --------------------------------------- II. Phần nội dung II.1. Chương 1: Tổng quan Môn Ngữ văn nói chung và phân môn Tiếng việt nói riêng là phân môn quan trọng trong hệ thống chương trìng giảng dạy ở trường THCS. Nó cung cấp cho học sinh vốn ngôn ngữ, một công cụ giao tiếp giúp học sinh nói đúng viết đúng tiến tới nói hay, viết hay Tiếng việt. Mặt khác dạy Tiếng việt là dạy tiếng mẹ đẻ, giúp các em thêm hiểu và yêu tiếng mẹ đẻ. Phần Tiếng việt nội dung dạy học có khá nhiều vấn đề mới không chỉ cung cấp kiến thức, cung cấp vốn từ để học sinh có thể dùng từ viết câu và liên kết câu trong văn bản mà còn có khả năng vận dụng rông rãi trong việc phân tích văn bản trong phân môn văn và phân môn Tập làm văn. Chương trình Ngữ văn 9 giành một thời lượng khá nhiều cho các phần ôn tập, tổng kết. Không chỉ ôn tập tổng kết những nội dung học ở lớp 9 mà của cả cấp học, ở học kì I,về Tiếng việt số tiết ôn tập, tổng kết và kiểm tra gần bằng số tiết học bài mới. Phối hợp một cách hợp lý có hiệu quả việc ôn tập tổng kết và cung cấp kiến thức mới là một đời hởi khắt khe đối với việc tổ chức dạy- học Ngữ văn 9 . Với phạm vi chương trình này tôi xin đề cập đến việc "Vận dụng phương pháp đổi mới vào dạy một giờ ôn tập Tiếng việt"cho HS THCS nói chung và HS lớp 9 nói riêng. Đây là một vấn đề nan giải mà trong quá trình ôn tập ( giảng dạy) chúng tôi đã gặp và giải quyết. II.1.1. Lịch sử vấn đề nghiên cứu --------------------------------------------------------------------------- ----------------------------------------------------------------------------- ---------------------------------------------------------------------------- II.1.2. Cơ sở lý luận: * Phương pháp tích cực là gì ? Phương pháp tích cực ( PPTC ) -PPTC hướng tới hoạt động hóa, tích cực hóa hoạt động nhận thức của người học. - Tích cực hóa trong hoạt động học tập liên quan trước hết đến động cơ học tập. Động cơ đúng tạo ra hứng thú. Hứng thú đúng là tiền đề của tự giác. Hứng thú và tự giác là hai yếu tố tâm lý tính tích cực. Tính tích cực sản sinh ra nếp tư duy độc lập.Suy nghĩ đọc lập là mầm mống của sáng tạo. Ngược lại phong cách học tập tích cực độc lập sáng tạo sẽ phát triển tự giác, hứng thú bồi dưỡng động cơ học tập. - Tính tích cực học tập biểu hiện ở những dấu hiệu : Hăng hái trả lời các câu hỏi của giáo viên( GV), bổ sung các câu hỏi của bạn, thích phát biểu ý kiến của mình trước vấn đề đề ra, hay nêu thắc mắc, đòi hỏi giải thích căn kẽ những vấn đề chưa rõ, chủ động vận dụng kiến thức kỹ năng đòi hỏi để nhận thức vấn đề mới. Tập chung chú ý vào những vấn đề đang học, kiên trì hoàn thành bài tập, không nản trước những tình huống khó khăn. - Tính tíc ... ương pháp dạy bài ôn tập Tiếng Việt đi từ hệ thống bài tập để củng cố lí thuyết Từ trước tới nay, dạy bài ôn tập Tiếng Việt thường có hai cách: Cách1 : đi từ lí thuyết đến giải hệ thống bài tập; cách 2 : đi từ hệ thống bài tập đến củng cố lí thuyết vì vậy nhiều GV dạy bài ôn tập theo quy trình GSK ( tức là đi từ lí thuyết đến bài tập củng cố ). Quy nghiên cứu nội dung bài ôn tập chúng tôi nhận thấy việc thực hiện phương pháp dạy bài ôn tập cho học sinh đi từ hệ thống bài tập để củng cố kiến thức lí thuyết là hợp lí hơn và thu được kết quả cao hơn. Nhưng tiến hành dạy bài này như thế nào ? phương pháp cụ thể ra sao tùy thuộc vào khả năng của từng người. Mục đích cuối cùng của giáo viên phải đạt được là: Củng cố khắc sâu kiến thức bài học cũ, chuẩn bị tâm thế cho HS làm bài kiểm tra và thi học kì đạt kết quả. Từ thực tế dạy các tiết ôn tập Tiếng Việt của các khối lớp trong những năm qua. Tôi đã đúc rút được vài kinh nghiệm cho giờ dạy như sau: Theo tôi để dạy tốt một bài ôn tập Tiếng Việt theo phương pháp dạy học tích cực thì GV phải xác định được mục tiêu, yêu cầu cơ bản của bài dạy là gì ? ( Giúp HS hệ thống hóa một số nội dung kiến thức đã học rèn cho học sinh các kĩ năng tổng hợp về sử dụng Tiếng Việt trong nói, viết,tích hợp các kiến thức của cả ba phân môn Văn - nTiếng Việt- Tập làm văn. Để đạt được những mục tiêu trên GV cần hướng dẫn cho học sinh chuẩn bị bài cho tiết học cụ thể: Bài Ôn tập Tiếng Việt - Bài 15- Tiết 73-lớp 9 kỳ I Đối với bài này GV phải có một hệ thống câu hỏi, bài tập để hướng dẫn cho học sinh và các bảng, lược đồ, bảng phụ...( Tức là GV phải chuẩn bị tốt các đồ dùng dạy học ) Giáo viên yêu cầu học sinh ôn lại kiến thức đã học đã học, nghiên cứu kĩ hệ thống câu hỏi, bài tập trong SGK, đọc kĩ các văn bản liên quan đến bài tập ôn tập. + Cách tổ chức và phương pháp dạy học. Giáo viên cần xác định hình thức ôn tập: Đi từ hệ thống bài tập rút ra lí thuyết đã học từ đó tiếp tục hướng dẫn cho học sinh vận dụng củng cố kiến thức vừa ôn . Phần thứ nhất: Nhìn tổng quát chương trình Tiếng Việt ở học kì I. Giáo viên đưa ra gợi dẫn 1: Chương trình Tiếng Việt ở học kì I đã đem lại cho em những hiểu biết gì về Tiếng Việt. Yêu cầu học sinh trả lời được: Trong học kì I chúng ta đã học những kiến thức sau đây về Tiếng Việt. 1. Các phương châm hội thoại. 2. Xưng hô trong hội thoại. 3.Cách dẫn trực tiếp cách dẫn gián tiếp. 4. Thuật ngữ. 5.Sự phát triển của từ vựng. 6. Trau rồi vốn từ. 7.Tổng kết từ vựng. 8.Phương ngữ ( chương trình địa phương ) Tuy nhiên bài ôn tập này chie ôn lại những kiến thức và kĩ năng mới được học trong học kì I và chưa được ôn trong bài tổng kết từ vựng. Phần thứ hai: Hướng dẫn cho học sinh ôn tập ba nội dung kiến thức cơ bản. Hoạt động1: GV hướng dẫn học sinh ôn các phương châm hội thoại: Sử dụng một số tình huống giao tiếp để dẫn vào bài hoặc đưa một số câu ca dao tục ngữ thể hiện các phương châm hội thoại để học sinh phát hiện nhập tâm nội dung bài ôn tập, sau đó GV hướng đẫn học sinh làm bài tập 2 SGK trang 190. Gợi dẫn 2: Hãy kể một số tình huống một số tình huống giao tiếp mà trong đó có một hoặc một số phương châm hội thoại nào đó không được tuân thủ ? ở tình huống này GV có thể đưa sẵn 2 ví dụ trên bảng phụ như sau : Ví dụ 1: Truyện thứ nhất Trong giờ vật lí, thầy giáo hỏi một học sinh đang mải nhìn qua cửa sổ: - Em cho thầy biết sóng là gì ? Học sinh : - Thưa thầy " sóng "là bài thơ của Xuân Quỳnh ạ ! Ví dụ 2: Truyện thứ 2. Truyện cười Tây Ban Nha " Hết bao lâu" " Một bà già tới phòng bán vé máy bay hỏi: - Xin làm ơn chơ biết Pa ri tới Mê hi cô bay hết bao lâu ? Nhân viên bán vé máy bay đang bận việc gì đó liền đáp: - Một phút nhé ! - Xin cảm ơn - bà già đáp và đi ra " * Giáo viên gợi dẫn và yêu cầu học sinh chỉ rõ: + Câu chuyện thứ nhất: Người nói vi phạm phương châm quan hệ. + Câu chuyện thứ hai: Người nói vi phạm phương châm về lượng. Từ hai ví dụ trên GV có thể cho HS lấy thêm một số ví dụ khác.Sau đó giáo viên yêu cầu học sinh thực hiện gợi dẫn 2: Khi giao tiếp chúng ta cần tuân thủ phương châm hội thoại nào? yêu cầu học sinh điền vào lược đồ như (SGK trang 190) trên bảng ? Khí giao tiếp chúng ta cần tuân thủ các phương châm nào? Từ đó học sinh rút ra kết luận Khi giao tiếp cần tuân thủ các phương châm sau: - Nói phải có nội dung, nội dung của lời nói phải đáp ứng yêu cầu của một cuộc giao tiếp không thừa, không thiếu ( phương châm về lượng ) - Đừng nói những điều mà mình không tin là đúng hay không có bằng chứng xác thực ( phương châm về chất) - Cần nói đúng về đề tài giao tiếp, tránh nói lạc đề ( Phương châm quan hệ ) - Cần tế nhị và tôn trọng người khác ( phương châm lịch sự ). GV cần lưu ý cho học sinh để tuân thủ các phương châm hội thoại, người nói phải làm gì ?( Phải nắm trắc được các đặc điểm của tình huống giao tiếp: Mục đích, không gian, thời gian giao tiếp và trạng thái tâm lí, sức khỏe, công việc, vốn hiểu biết, văn hóa của người nghe ) ? Phương châm hội thoại có phải là căn cứ chung bắt buộc trong mọi tình huống giao tiếp không? vì sao? ( Phương châm hội thoại là yêu cầu chung trong giao tiếp chứ không phải là những quy định có tính chất bắt buộc trong mọi tình huống. Do đó, có những trường hợp trong đó một số phương châm hội thoại nào đó không được tuân thủ). + Những trường hợp nào vi phạm phương châm hội thoại Đó là do : -Người nói vô ý, vụng về,thiếu văn hóa trong giao tiếp. - Phải ưu tiên cho phương châm hội thoại quan trọng hơn. - Người nói muốn hướng người nghe hiểu câu nói theo một hàm ẩn nào đó. Muốn vậy, từ gợi dẫn (1) và (2) như trên giáo viên từ đó củng cố kiến thức về phương châm hội thoại rèn cho học sinh những kĩ năng cơ bản khi sử dụng phương châm hội thoại trong giao tiếp phù hợp với tình hình giao tiếp. Sau đó giáo viên có thể đưa ra một hệ thống câu hỏi trắc nghiệm lại kiến thức vừa ôn ở phần trên lấy thên ví dụ khác để khắc sâu kiến thức và chuyển tiếp sang hoạt động thứ 2 *Phương pháp học hợp tác ( Thảo luận nhóm và tranh luận ) Tùy tường bài ôn tập cụ thể và yêu cầu cuả vấn đề học tập giáo viên có thể phân nhóm, chuẩn bị nội dung câu hỏi cũng như bài tập cho từng nhóm . Các nhóm tự bầu ra nhóm trưởng , trong nhóm nhỏ mỗi thành viên thực hiện một công việc, mỗi thành viên đều được hoạt động tích cực, không ỷ lại vào một người năng động nổi trội hơn. Các thành viên trong nhóm giúp nhau tìm hiểu vấn đề trong không khí thi đua với các nhóm khác. Kết quả thảo luận của mỗi nhóm sẽ đóng góp vào kết quả chung của cả lớp. Để trình bày kết quả của nhóm trước lớp có thể bằng hình thức báo cáo, hình thức báo cáo cũng rất đa dạng: có thể báo cáo trước GV, có thể báo cáo trước lớp, báo cáo bằng giấy, bảng phụ, bảng chính. Ví dụ khi dạy tiết 43: Tổng kết từ vựng ( lớp 9) Tiết ôn tập thứ nhất có 4 phần : Từ đơn , từ phức - Thành ngữ - Nghĩa của từ - Từ nhiều nghĩa và hiện tượng chuyển nghĩa của từ . Giáo viên có thể chia lớp thành 4 nhóm, mỗi tổ 1 nhóm , mỗi nhóm một phần trước hết yêu cầu HS các nhóm làm bài tập rồi từ bài tập các em rút ra khái niệm chung của mỗi phần. Giáo viên phát mỗi nhóm một bảng phụ nhỏ , ghi kết quả thảo luận vào đó trong thời gian 15 đến 20 phút các em treo kết quả của nhóm mình lên trên bảng chính. Các nhóm khác nhận xét và chữ lỗi cho các nhóm nếu sai. Như vậy tiết ôn tập mất rất ít thời gian, thời gian còn lại GV đưa ra một số bài tập nâng cao củng cố thêm kiến thức và rèn cho học sinh kĩ năng viết đoạn văn theo nội dung vừa ôn tập tổng kết. Với phương pháp làm việc nhóm cho phép các thành viên trong nhóm chia sẻ các suy nghĩ , hiểu biết của bản thân, cùng nhau xây dựng nhận thức, thái độ mới. Bằng cách nêu suy nghĩ mỗi em có thể nhận rõ trình độ hiểu biết của mình về chủ đề nêu ra, thấy mình cần học hỏi thêm những gì . Giờ ôn tập trở thành quá trình học hỏi lẫn nhau chứ không phải là sự tiếp cận thụ động từ giáo viên. Phương pháp này giúp học sinh dễ hiểu dễ nhớ hơn dễ nhớ hơn vì các em được tham gia trao đổi trình bày vấn đề nêu ra, cảm thấy hào hứng khi thành công chung của tổ, lớp có phần đống gióp của mình. * Các hoạt động giống trò chơi: Thường tiết ôn tập bao giờ kiến thức cũng nặng, giờ học rất trầm, nhưng nếu giáo viên biết cách tổ chức hoạt động dạy cho phù hợp thì vẫn gây được không khí hào hứng như các giờ dạy kiến thức mới. Có thể trong giờ học GV tổ chức chơi các trò chơi, tổ chức thi đua giữa các tổ, nhóm với nhau, đôi khi có cả phần thưởng nho nhỏ để tạo hứng thú cho giờ học.Tuy nhiên việc áp dụng cũng phải linh hoạt theo từng bài, không nên gượng ép. Ví dụ khi dạy tiết 43: Tổng kết từ vựng (lớp 9) Phần 1 : Từ đơn và từ phức Bài tập . Trong các từ sau, từ nào là từ ghép, từ nào là từ láy? ngặt nghèo, nho nhỏ,giam giữ, gật gù, bó buộc, tươi tốt,lạnh lùng,bọt bèo,xa xôi,cổ cây, đưa đón, nhường nhịn, rơi rụng, mong muốn,lấp lánh. Từ ghép Từ láy ------------------------------ ------------------------------ ---------------------------- -------------------------------- --------------------------------- -------------------------------- Với dạng bài tập này GV có thể chọn hai đội lên chơi trò chơi tiếp sức. Bằng cách trong vòng 1 phút đội nào viết được nhiều từ vào bảng đội đó sẽ thắng. Phần II: Thành ngữ Phần bài tập giáo viên có thể cho HS chơi trò chơi tiếp sức giữa hai dãy bàn tìm các thành ngữ mà em biết ghi lên bảng ( Trong vòng 3 phút đội nào tìm được nhiều thành ngữ đội đó sẽ thắng). Hoặc với trò chơi như vậy khi ôn tập về phương châm lịch sự ở tiết 73 ( lớp 9 ) GV có thể yêu cầu HS ? Trong kho tàng tục ngữ ca dao Việt Nam có nhiều câu nêu lên những lời khuyên, những kinh nghiệm hay, sâu sắc về cách xưng hô, cách ăn nói trong giao tiếp, ứng xử . Các nhóm hãy lấy một vài câu ca dao, tục ngữ nói về nội dung đó. Những trò chơi này vừa giúp HS củng cố thêm kiến thức lí thuyết trong tiết ôn tập vừa giúp các em học tập được những lời hay ý đẹp từ những câu thành ngữ, tục ngữ, ca dao đó. II.3.2.Kết quả nghiên cứu thực tiễn Với những phương pháp như vậy khí áp dụng vào bài giảng chúng tôi đã thu được những kết quả sau: - Học sinh biết hệ thống toàn bộ kiến thức đã học. -Học sinh phát triển ngôn ngữ khả năng tư duy, trau dồi vốn từ vựng, làm việc độc lập. - Qua đồ dùng dạy học và áp dụng trò chơi đã phát huy được hiệu quả giờ học, kích thích tinh thần học tập của học sinh. - áp dụng dụng được nhiều dạng bài tập cho học sinh. - Chú ý được nhiều đối tượng học sinh trong lớp. II.3.2.1.Vài nét về địa bàn nghiên cứu
Tài liệu đính kèm: