Sáng kiến kinh nghiệm Rèn luyện kỹ năng nghe, đọc, viết Ngữ văn 6 THCS

Sáng kiến kinh nghiệm Rèn luyện kỹ năng nghe, đọc, viết Ngữ văn 6 THCS

Môn ngữ văn có vị trí đặc biệt quan trọng việc thực hiện mục tiêu của trường THCS, góp phần hình thành những con người có nhân cách, nâng cao trình độ phổ thông, chuẩn bị cho họ khi ra trường hoặc tiếp tục học lên ở bậc cao hơn. Góp phần nâng cao ý thức tự tu dưỡng rèn luyện, biết yêu thương con người có lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, biết hướng tới tư tưởng tình cảm cao đẹp như lòng nhân ái, tinh thần tôn trọng lẽ phải, sự công bằng, biết căm ghét cái xấu, cái ác. Đó là những con người biết rèn luyện để có tính tự lập, có tư duy sáng tạo, có năng lực cảm thụ các giá trị chân, thiện, mĩ trong văn hoc, Có năng lực thực hành sử dụng tiếng việt như một công cụ để tư duy và giao tiếp. Đó cũng là những người có ham muốn đem tài chí của mình cống hiến cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Bởi vậy trong các nhà trường phổ thông, người giáo viên không chỉ dạy cho các em học sinh về những nội dung cơ bản hay tìm hiểu nội dung bài học theo đúng đặc trưng của bộ môn ngữ văn, mà cần rèn luyện cho các em 4 kỹ năng đó là nghe, đọc, viết, nói.

 Nhưng thực chất từ xưa tới naychúng ta chủ yếu chú trọng vào việc làm sao hướng dẫn cho học sinh khai thác đúng đủ nội dung của văn bản, hoặc chú trọng vào rèn luyện cho các em kỹ năng nghe, đọc, viết. Mà quên việc rèn luyện cho các em kỹ năng rất quan trọng đó là kỹ năng nói.

 Nếu như nghe, đọc là hai kỹ năng quan trọng của hoạt động tiếp nhận thông tin thì nói và viết là hai kỹ năng quan trọng của hoạt động bộc lộ truyền đạt thông tin.

 

doc 7 trang Người đăng vienminh272 Lượt xem 1088Lượt tải 1 Download
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Rèn luyện kỹ năng nghe, đọc, viết Ngữ văn 6 THCS", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
RÈN LUYỆN KỸ NĂNG NGHE- ĐỌC- ViẾT NGỮ VĂN 6 THCS
I.Đặt vấn đề:
 Môn ngữ văn có vị trí đặc biệt quan trọng việc thực hiện mục tiêu của trường THCS, góp phần hình thành những con người có nhân cách, nâng cao trình độ phổ thông, chuẩn bị cho họ khi ra trường hoặc tiếp tục học lên ở bậc cao hơn. Góp phần nâng cao ý thức tự tu dưỡng rèn luyện, biết yêu thương con người có lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, biết hướng tới tư tưởng tình cảm cao đẹp như lòng nhân ái, tinh thần tôn trọng lẽ phải, sự công bằng, biết căm ghét cái xấu, cái ác. Đó là những con người biết rèn luyện để có tính tự lập, có tư duy sáng tạo, có năng lực cảm thụ các giá trị chân, thiện, mĩ trong văn hoc, Có năng lực thực hành sử dụng tiếng việt như một công cụ để tư duy và giao tiếp. Đó cũng là những người có ham muốn đem tài chí của mình cống hiến cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Bởi vậy trong các nhà trường phổ thông, người giáo viên không chỉ dạy cho các em học sinh về những nội dung cơ bản hay tìm hiểu nội dung bài học theo đúng đặc trưng của bộ môn ngữ văn, mà cần rèn luyện cho các em 4 kỹ năng đó là nghe, đọc, viết, nói.
 Nhưng thực chất từ xưa tới naychúng ta chủ yếu chú trọng vào việc làm sao hướng dẫn cho học sinh khai thác đúng đủ nội dung của văn bản, hoặc chú trọng vào rèn luyện cho các em kỹ năng nghe, đọc, viết. Mà quên việc rèn luyện cho các em kỹ năng rất quan trọng đó là kỹ năng nói.
 Nếu như nghe, đọc là hai kỹ năng quan trọng của hoạt động tiếp nhận thông tin thì nói và viết là hai kỹ năng quan trọng của hoạt động bộc lộ truyền đạt thông tin.
 Vì thế kỹ năng nói có liên quan mật thiết đến việc hình thành các kỹ năng nghe, đọc, viết. Nói không chỉ góp phần rèn luyện tư duy mà còn giúp học sinh viết tốt. Muốn nói và viết tốt thì người nói phải có kỹ năng tiếp nhận thông tin nghe đọc và quan sát tốt.
 Vì thế theo nguyên tắc giao tiếp thì trong quá trình dạy học ngữ văn cần rèn luyện đồng thời cả 4 kỹ năng cho học sinh. Nên trong quá trình giảng dạy tại trường PTCS. Tôi đã chú ý rèn luyện và phát triển kỹ năng nói cho học sinh qua môn ngữ văn và đạt được kết quả khả quan. Vậy tôi xin được trao đổi dsáng kiến này tới tất cả các bạn đồng nghiệp. Tôi hy vọng sáng kiến sẽ giúp các em học sinh khi ra đời có một kỹ giao tiếp hữu hiệu trong cuộc sống.
 II / Giải quyết vấn đề:
 1 / Thực trạng: 
- Như chúng ta đã biết: Nói là một trong những kỹ năng rất quan trọng trong giao tiếp hàng ngày. Qua thực tiễn dạy học môn văn trước đây cũng như môn ngư văn hiện nay, không phải khi nào kỹ năng nói đều được chú trọng rèn luyện và được phát triển cùng một lúc. thông thường người dạy hay chú trọng vào dạy các tri thức văn, tiếng việt, tập làm văn, mà bỏ qua việc phát triển cho học sinh kỹ năng nghe, đọc, nói, viết, trong những tình huống giao tiếp sinh động và gần gũi với cuộc sống sinh hoạt của các em. Hoặc cũng có giáo viên quá chú trọng đến đọc diễn cảm, đọc hiểu hay quá chú trọng đến nghe, viết mà bỏ qua luyện nói. Có một thực tiễn đau lòng là nhiều thế hệ học sinh khi ra trường không biết viết những văn bản tối thiểu phục vụ cho cuộc sống hàng ngày, không biết cách đọc hiểu chính xác một văn bản.
 Thậm chí không biết lắng nghe và thấu hiểu, không biết nói ra những điều mà mình nghĩ, không truyền đạt được chính xác một thông tin hoặc không nói đúng theo nguyên tắc giao tiếp.
 Qua thực tế khảo sát thực tế ở trường THCS nơi tôi đang giảng dạy cứ 100 học sinh yêu cầu phát biểu trước lớp, trước đông người thì có tới 90% học sinh không thể nói lưu loát được, thậm chí có những học sinh không biết nói câu gì khi được gọi đến chỉ đứng ở đó vài phút và chạy về chỗ hoặc chờ thầy, cô giáo cho ngồi xuống là vội vàng ngồi xuống ngay, để tránh sự dòm ngó của các bạn.
 2) nguyên nhân:
 Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng như trên nhưng chung quy lại có hai nguyên nhân cơ bản như sau: 
 a.Phía giáo viên: 
Đa số các giáo viên dạy ngữ văn là ngại dạy các giờ luyện nói. Vì thế chỉ có 45 phút mà yêu cầu cần luyện tập thì mất nhiều thời gian. Một phần do kinh nghiệm của giáo viên trong việc rèn luyện kỹ năng nói và tổ chức một giờ luyện nói cho học sinh còn hạn chế và chưa thường xuyên.
 b. Phía học sinh: 
Do học sinh là con em các dân tộc thiểu số vùng sâu, vàng xa. Hạn chế về ngôn ngữ phổ thông phát âm chưa chuẩn xác. Chưa có kỹ năng nói trước tập thể, chưa chủ động và tự tin nói trước đông người.
 c. Những nguyên nhân khác: 
 Bên cạnh hai nguyên nhân cơ bản trên còn một lý do khác là lớp học thường đông học sinh ( từ 30 – 40 học sinh / lớp ) mà thời gian luyện tập lại quá ngắn, do đó thời gian dành cho học sinh luyện tập không đảm bảo. Không những thế mà hệ thống bài tập luyện nói trong chương trình môn ngữ văn chưa phong phú đa dạng, sách giáo viên chưa có định hướng cụ thể cho một giờ kuyện nói để giáo viên rèn luyện và phát triển kỹ năng nói cho học sinh qua từng giờ học, mà còn hướng dẫn chung chung thậm chí nhiều tiết còn chưa có định hướng cho giờ luyện nói nên ít nhiều gây hạn chế cho giáo viên trong việc xây dựng một giờ luyện nói thành công. Ngoài ra nội dung chương trình chưa thiết kế theo kiể dạy học: đối thoại – đàm thoại - thảo luận... để hỗ trợ cho việc luyện kỹ năng nói.
 3/ Biện pháp thực hiện: 
- Việc dạy nói cho học sinh cũng là một trong những trọng tâm quan trọng của việc dạy văn ở trường THCS. Mục đích chung của các giờ luyện nói trong chương trình vẫn là rèn cho học sinh có kỹ năng nói tiếng việt tự tin thành thạo. Chính vì thế khi tiến hành các giờ luyện nói giáo viên cần giúp học sinh biết được mình sẽ nói cái gì ( xác định đề tài ) nói với ai ( xác định giao tiếp ) nói trong hoàn cảnh nào ( xác định hoàn cảnh giao tiếp ) nói để làm gì ( xác định mục đích giao tiếp ) nói như thế nào ( cách thức giao tiếp ) để thuyết phục người nghe. 
 - Việc rèn luyện kỹ năng nói cho học sinh ở trường trung học cơ sở hiện nay không phải đơn giản. Vì thế trong quá trình hướng dẫn luyện nói thì người giáo viên phải tạo ra những tình huống giả định tương đối gần gũi với cuộc sống thường ngày của học sinh, để học sinh có thể nói được về một vấn đề nào đó.
 - Người giáo viên phải tạo không khí hào hứng cho học sinh, thái độ dễ hợp tác của những người cùng tham gia giao tiếp, đồng thời giáo viên cần luyện nói kịp thời tạo hứng thú cho học sinh.
 - Ngoài ra giáo viên cần tận dụng thời gian để luyện nói cho học sinh:
 VD: Thông qua việc tổ chức các buổi dạ hội: Văn, sử, GDCD hoặc các buổi toạ đàm nhân dịp các ngày lễ lớn: 26/3, 22/12, 20/11, 08/3...hoặc thông qua các tiết thảo luận trong môn hoạt động ngoài giờ lên lớp để rèn luyện kỹ năng nói cho học sinh.
- Để giúp các em học sinh có kỹ năng nói tiếng việt thành thạo. Khi tiến hành một giờ luyện nói, giáo viên cần hướng dẫn học sinh tuân thủ theo một số yêu cầu cơ bản sau đây:
 + Theo dàn bài đã được chuẩn bị trước ( dàn bài ngắn gọn, bám sát yêu cầu của đề bài, nêu được các ý chính ) trọng tâm.
 + Tránh học vẹt, học thuộc lòng để đọc lại bài văn chi tiết đã có trước ( văn mẫu ).
 + Khi nói, giọng nói rõ ràng, cao độ vừa phải, đúng chuẩn ngữ âm, truyền cảm và thuyết phục được người nghe biết lên trầm xuống bổng hoặc thể hiện cảm xúc chân thành, tự nhiên không gò bó, áp đặt.
 + Tác phong tự nhiên, tự chủ, sáng tạo.
 + Không nói tràn lan nói đúng yêu cầu của đề bài. Ngoài ra để nâng cao chất lượng mỗi giờ luyện nói giáo viên nên chủ động phát huy kinh nghiệm của cá nhân và đồng nghiệp. Linh hoạt trong vận dụng các hình thức đối với phương pháp dạy học ( PPDH ) theo hướng tích cức hoá hoạt động học tập của người học. Vận dụng sáng tạo lý thuyết giao tiếp và dạy các giờ luyện nói.
 * Nói tóm lại: Theo kinh nghiệm thực tiễn dạy học môn ngữ văn trong nàh trường hiện nay, muốn đạt được hiệu quả cao trong các giờ luyện nói không chỉ trong các giờ giảng văn mà còn chú ý luyện cho các em ở mọi nơi mọi lúc.
 - Rèn cho các em phải nói trước khi nói, nói đúng vấn đề cần trao đổi, khi nói cần bình tĩnh tự tin nói theo đúng nghi thức và tuân thủ các nguyên tắc hội thoại, biết vận dụng các yếu tố phi ngôn ngữ để lời nói thêm thuyết phục.
 - Trong quá trình chuẩn bị một tiết học luyện nói giáo viên có thể hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài theo nhiều dạng bài khác nhau:
 VD: Khi dạy loại bài văn biểu cảm thì yêu cầu có gióng nói rõ ràng cao độ, vừa phải, đúng chuẩn ngữ âm, truyền cảm lên trầm xuống bổng hoặc thể hiện cảm xúc chân thành, tự nhiên không áp đặt.
 Cần giúp học sinh chuẩn bị tốt nội dung bài nói ở nhà một cách cụ thể, đầy đủ, chu đáo theo yêu cầu của đề bài đặt ra.
 + Khi dạy tiết 56 bài 13 ngữ văn lớp 7: Luyện nói phát biểu cảm nghĩ về tác phẩm văn học.
 Đề bài là: Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ “ Rằm tháng giêng” của Hồ Chí Minh. 
 Với đề bài này yêu cầu bày tỏ thái độ, tình cảm suy ngĩ đối với tác phẩm văn chương. Nên cần chuẩn bị sẵn một giàn bài như sau:
 * Phần mở bài:
 + Giới thiệu tác phẩm: Rằm tháng giêng là một bài thơ...
 + Bài thơ được chủ tịch Hồ Chí Minh viết vào thời kỳ...
 + Giới thiệu ấn tượng cảm xúc của mình:
 - Đọc bài thơ, em cảm thấy...
 - Bài rằm tháng giêng sâu sắc và thú vị...
 * Phần thân bài:
 + Chuẩn bị đoạn văn nêu cảm nhận chung về hình ảnh trong bài thơ: Như phong cảnh, tâm hồn...
 + Chuẩn bị đoạn văn nêu cảm nghĩ cho từng câu thơ: Chú ý các biện pháp liên tưởng, tưởng tượng, so sánh...
* Phần kết bài:
 Có thể chọn một trong các cách sau: 
 + Bìa thơ cho ta thấy Bác Hồ là một nhà cách mạng, một nàh thơ...
 + Qua bài thơ ta thấy Bác Hồ là một người lạc quan, yêu đời...
 + Đọc bài thơ ta thấy Bác Hồ là một nghệ sĩ yêu cái đẹp và sáng tạo cái đẹp cho đời...
 Còn đối với loại bài văn nghị luận đòi hỏi phải có giọng nói rõ ràng, cao độ vừa phải, không gò bó, đặc biệt tránh nói vòng vo, mà cần nói một cách chính xác ngắn gọn, đủ nội dung yêu cầu của đề bài.
 VD: Khi dạy tiết 140 bài 27 ( Ngữ văn 9 ): Luyện nói nghị luận về một đoạn thơ, bàì thơ. 
 Đề bài: Phân tích tình yêu quê hương trong bài thơ “ Quê hương” của Tế Hanh. Với đề bài này học sinh cần chuẩn bị một dàn bài cụ thể như sau: 
* Phần mở bài:
 - Giới thiệu bài thơ quê hương, nêu ý kiến khái quát của mình về tình yêu quê hương trong bài thơ. 
 * Phần thân bài:
 Phân tích tình yêu quê hương trong bài thơ:
 + Khái quát chung về bài thơ ( Một tình yêu tha thiết, trong sáng đậm chất lý ưởng, lãng mạn )
 + Cảnh ra khơi: Vẻ đẹp trẻ trung, giàu sức sống đầy khí thế vượt trường giang. 
 + Cảnh trở về: Đông vui no đủ, bình yên.
 + Nỗi nhớ: Hình ảnh đọng lại, vẻ đẹp sức mạnh, mùi nồng mặn của quê hương.
* Kết bài:
 - cả bài thỏ là một khúc ca quê hương tươi sáng, ngọt ngào.Nó là sản phẩm của một hồn thơ trẻ trung, tha thiết, đầy thơ mộng.
4 / Kết qủa :
- Sau vài năm thực tế dạy học môn ngữ văn theo phương pháp đổi mới kết hợp rèn luyện và phát triển kĩ năng nói cho học sinh THCS. Kết quả thu được rất khả quan :
- 95% học sinh đã có vốn từ vựng phong phú, năng lựcc giao tiếp tốt.
- 100% học sinh được rèn luyện và phát triển kĩ năng nói qua các giờ học cảu môn ngữ văn và các môn học khác ( thuộc bộ môn xã hội ).
- Cứ 100 học được yêu cầu nói trước tập thể đông người thì có tới 95% học sinh biết trình bày một ý tưởng hoặc có kĩ năng nói thành thạo, lưu loát, chủ động và tự tin hơn. Số còn lại các em đèu có hứng thú sôi nổi trong giờ học luyện nói, không còn tình trạng chán nản trong giờ luyện nói như trước đó.
5/ Bài học kinh nghiệm:
Trong quá trình rèn luyện và phát triển lĩ năng nói cho học sinh qua môn ngữ văn ở trường THCS cần thực hiện theo các bước sau :
+ Giáo viên phải lựa chọn các hướng dẫn sao cho phù hợp với nội dung yêu cầu của bài học, giờ học.
+ Lựa chọn sao cho vấn đề luyện nói phải gần gũi, thiết thực, dễ hiểu và dễ truyền đạt, quen thuộc trong cuộc sống.
+ Chuẩn bị đầy đủ những phương tiện cần thết để đáp ứng yêu cầu của giờ học.
+ Khi tiến hành giờ luyện nói giáo viên nên giải thích cho học sinh rõ về : Mục đích yêu cầu, cách thực hiện của giờ luyện nói.
+ Để giờ luyện nói đạt được kết quả tốt, sau khi hướng dẫn, giải thích, và kiểm tra việc chuẩn bị bài ở nhà cảu học sinh, giáo viên ghi đầu bài, đề mục, đầu bài lên bảng. Sau đó chia lớp thành nhiều nhóm, tổ, phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng nhóm.
+ Trong khi học sinh luyện nói, giáo viên phải là người trọng tài theo dõi diễn biến của giờ luyện nói. Để có sự động viên những cá nhân tiêu biểu và uốn nắn, chỉnh sửa kịp thời những trường hợp còn nói tràn lan ngaòi yêu cầu của đề.
+ Kết thúc giờ luyện nói, giáo viên cần nhận xét đánh giá kết quả giờ học một cách khách quan, công bằng và thống kê những ưu điểm, nhược điểm về cách trình bày nội dung của từng nhóm, từng em...Sau đó biểu dương khen ngợi những cá nhân, nhóm tiêu biểu trong giờ luyện nói, đáng giá xếp loại giờ học.
III / Kết luận :
Để đạt đươc kết quả cao học sinh có kĩ năng giao tiếp thành thạo, tự tin lưu loát trước tập thể lớp. Giáo viên cần quan tâm hơn tới việc rèn luyện và phát triển kĩ năng nói cho học sinh ở mọi lúc mọi nơi.
Rèn luyện cho các em phải biết suy nghĩ trước khi nói, nói đúng vấn đè cần nói, cần bình tĩnh, tự tin nói đúng theo văn cảnh và tuân thủ các nguyên tắc hội thoại.
 Ngoài ra giáo viên cần tạo ra những ngữ cảnh giao tiếp cụ thể, đặt trong những “ Tình huống có vấn đề “để kích thích tư duy và sự phản xạ ngôn ngữ nhanh chóng của học sinh. Khuyến khích các em bộc lộ những suy nghĩ trong việc phát biểu, thảo luận ngay cả khi ý kiến đó là sai hoặc chưa hoàn toàn chính xác.
Khi đánh giá việc trình bài miệng của học sinh bên cạnh việc cho điểm, giáo viên cần sửa chữa cho học sinh những lỗi cần tránh khi nói như : Nói ngọng, nói nhanh, nói dài dòng....Nhằm giúp học sinh không những tìm hiểu đúng đặc trưng, nội dung cơ bản của môm ngữ văn mà còn giúp các em phát triển tốt kĩ năng nói. Để khi ra trường hoặc vào đời lời nói thực sự trở thành công cụ giao tiếp hữu hiệu cho mọi người trong cuộc sống.
 Với năng lực và kinh nghiệm còn nhiều hạn chế, trong quá trình thực hiện và viết còn nhiều thếu xót. Rất mong các đồng chí đồng nghiệp góp ý kiến xây dựng. Tôi xin chân thành cảm ơn./,
 Ngày 20/04/2009 
 Người viết đề tài

Tài liệu đính kèm:

  • docSKKN HAY 6.doc