PHẦN A. MỞ ĐẦU
I/ LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trong giai đoạn hiện nay, đất nước ta mở cửa hoà nhập với quốc tế rộng lớn. Nhiệm vụ và mục tiêu cơ bản của giáo dục là nhằm xây dựng những con người và thế hệ trẻ thiết tha gắn bó với lí tưởng độc lập dân tộc và chủ nghỉa xã hội, có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường để xây dựng và bảo vệ tổ quốc, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; giữ gìn và phát huy các giá trị văn hoá dân tộc, có năng lực tiếp thu tinh hoa của văn hoá nhân loại, phát huy tiềm năng của dân tộc và con người Việt Nam, có ý thức cộng đồng và phát huy tính tích cực cá nhân, làm chủ tri thức khoa học và công nghệ hiện đại, có tư duy sáng tạo, có kĩ năng thực hành giỏi, có tác phong công nghiệp, có tính tổ chức kỉ luật, có sức khoẻ, là những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội “vừa hồng vừa chuyên” như lời dạy của Bác Hồ.
Phần a. Mở đầu I/ Lý do chọn đề tài Trong giai đoạn hiện nay, đất nước ta mở cửa hoà nhập với quốc tế rộng lớn. Nhiệm vụ và mục tiêu cơ bản của giáo dục là nhằm xây dựng những con người và thế hệ trẻ thiết tha gắn bó với lí tưởng độc lập dân tộc và chủ nghỉa xã hội, có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường để xây dựng và bảo vệ tổ quốc, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; giữ gìn và phát huy các giá trị văn hoá dân tộc, có năng lực tiếp thu tinh hoa của văn hoá nhân loại, phát huy tiềm năng của dân tộc và con người Việt Nam, có ý thức cộng đồng và phát huy tính tích cực cá nhân, làm chủ tri thức khoa học và công nghệ hiện đại, có tư duy sáng tạo, có kĩ năng thực hành giỏi, có tác phong công nghiệp, có tính tổ chức kỉ luật, có sức khoẻ, là những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội “vừa hồng vừa chuyên” như lời dạy của Bác Hồ. Trong nhà trường phổ thông, mỗi môn học do đặc điểm riêng của mình có thể thực hiện các nhiệm vụ chung đó bằng những cách khác nhau. Bộ môn vật lí nói riêng cũng không nằm ngoài những mục tiêu chung đó. Quá trình dạy học môn vật lí là một bộ phận của quá trình dạy học, tuân theo những quy luật của giáo dục. Dạy học vật lí không đơn thuần là truyền thụ cho học sinh những kiến thức vật lí mà thông qua việc dạy vật lí phải góp phần hình thành và phát triển phẩm chất, nhân cách toàn diện của học sinh, điều này đòi hỏi những hình thức và cách thức hoạt động của giáo viên và học sinh trong giờ học vật lí phù hợp với phương pháp chung hình hình thành phẩm chất, nhân cách. Trong bộ môn vật lí ở trường trung học cơ sở giáo viên cần trang bị cho học sinh những kiến thức về các hiện tượng và các quá trình vật lí quan trọng nhất thường gặp trong đời sống hàng ngày, trong tự nhiên và trong kĩ thuật thuộc các lĩnh vực cơ học, nhiệt học, điện và điện từ học, âm học, quang học. Học sinh phải lĩnh hội được các khái niệm vật lí cơ sở để có thể mô tả đúng đắn các hiện tượng và quá trình vật lí cần nghiên cứu và giải thích một số hiện tượng và quá trình vật lí đơn giản. Học sinh cần phải nhận thức tính quy luật và quá trình vật lí, lĩnh hội chắc chắn các định luật vật lí trong nó. Học sinh cần phải có những hiểu biết cơ bản về các phương pháp nhận thức khoa học nói chung và các phương pháp đặc thù của vật lí học nói riêng, trong đó đặc biệt là phương pháp thực nghiệm vật lí. Trong việc tổ chức dạy và học vật lí ở trung học cơ sở học sinh được trang bị những kĩ năng và năng lực giải quyết các vấn đề đặt ra trong quá trình học tập; học sinh có được kĩ năng quan sát các hiện tượng và các quá trình vật lí trong đời sống hàng ngày, kĩ năng sử dụng các dụng cụ đo, kĩ năng phân tích, xử lí các thông tin, kĩ năng diễn đạt rõ ràng, chính xác bằng ngôn ngữ vật lí, hình thành khẳ năng đề xuất các phương án thí nghiệm đơn giản, kiểm tra dự đoán. Hình thành cho học sinh kĩ năng vận dụng kiến thức, khái niệm, định luật để mô tả và giải thích các hiện tượng và các quá trình vật lí đơn giản thường gặp trong tự nhiên, trong cuộc sống thường ngày hoặc trong kĩ thuật cũng như để giải các bài tập và bài toán vật lí chỉ đòi hỏi những suy luận logic và những tính toán cơ bản. Để đạt được những vấn đề đó, đòi hỏi người giáo viên cần có những phương pháp dạy học đúng đắn, mỗi người thầy khi giảng dạy môn vật lí cần phải cung cấp cho học sinh nhiều hiểu biết về phương pháp quan sát, phương pháp thực nghiệm nghiên cứu vật lí. Qua thực tế giảng dạy tôi thấy đa số các em hứng thú khi học môn vật lí. Tuy nhiên khi tham gia vào quá trình học, còn học sinh chưa biết phân tích và tìm ra những dấu hiệu bản chất của khái niệm, công thức hay một định luật, kĩ năng vận dụng kiến thức vật lí còn chậm, trong quá trình thực hành học sinh còn lúng túng trong các thao tác như: sử dụng dụng cụ, thực hiện phép đo, một số thành viên của nhóm chưa thực sự tham gia tích cực. Xuất phát từ những vấn đề trên đây, khi giảng dạy tôi đã đi sâu vào nghiên cứu Một số vấn đề về phương pháp giảng dạy bài thực hành: “ Xác định công suất của các dụng cụ điện” Chương I - Điện học. Vật Lí 9, mục đích giúp học sinh hiểu được vấn đề của bài học một cách sâu sắc hơn, cụ thể, chính xác hơn, tin tưởng ở kết luận thu được của bài học. Rèn cho học sinh những kĩ năng, kĩ xảo, cần thiết, trên cở sở kiến thức vật lí vững chắc, góp phần giáo dục kĩ thuật tổng hợp, hướng nghiệp cho học sinh, góp phần giáo dục nhân cách, làm cho học sinh có kĩ năng sử dụng các dụng vật lí, đặc biệt là các dụng cụ đo lường, kĩ năng lắp giáp thiết bị để tiến hành thí nghiệm vật lí. Những kiến thức và kĩ năng đó giúp cho học sinh sau này có thể nhanh chóng thích ứng được với các hoạt động trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. II/ Mục tiêu nghiên cứu 1. Mục đích. - Giúp học sinh xác lập được những đặc tính bản chất hay những quy luật khách quan giữa các sự vật hiện tượng. - Làm cho học sinh có thể tự tay gây ra các hiện tượng, đo lường các đại lượng xử lí các số liệu kiểm tra lại những dự toán của chính mình. Tạo cho học sinh hiểu vấn đề một cách sâu sắc, cụ thể, chính xác hơn, tin tưởng ở những kết luận thu được. - Rèn luyện cho học sinh những kĩ năng, kĩ xảo, cần thiết của người nghiên cứu vật lí hay lao động kĩ thuật (như lắp ráp thiết bị, sử dụng các dụng cụ máy móc đơn giản, lập kế hoạch thí nghiệm và thực hiện kế hoạch, đánh giá kết quả thu được. - Giúp học sinh làm quen với phương pháp thực nghiệm được sử dụng rộng rãi trong nghiên cứu vật lí và trong các lĩnh vực khác. 2. Nhiệm vụ Trong quá trình nghiên cứu phương pháp dạy học tôi đã hướng dẫn học sinh biết vận dụng những kiến thức là lý thuyết vào trong quá trình thực hành. Cụ thể là: Sử dụng các phương pháp sao cho phù hợp với từng nội dung và kiểu bài lên lớp. Vận dụng những kiến thức để thao tác hướng dẫn học sinh thực hành. Qua nghiên cứu đã rút ra những bài học kinh nghiệm về vận dụng các phương pháp giảng dạy tiết thực hành theo phương pháp đổi mới môn vật lí sao cho đạt kết qủa cao nhất nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong học tập của học sinh. III. Phạm vi nghiên cứu - Một số vấn đề về phương pháp giảng dạy bài thực hành: “ Xác định công suất của các dụng cụ điện”. chương I-Điện học. Vật lí 9, áp dụng cho học sinh các lớp 9A1, 9A2, trường THCS Văn Sơn - Huyện Văn Bàn - Tỉnh Lào Cai - Thời gian nghiên cứu từ tháng 9/2008 đến tháng 12/2008 IV. phương pháp nghiên cứu. - Phương pháp tổng kết kinh nghiệm. - Phương pháp điều tra phỏng vấn, nói chuyện. - Phương pháp dự giờ thăm lớp. - Phương pháp thực nghiệm - Phương pháp nghiên cứu tài liệu, sách tham khảo Phần b. nội dung Chương 1 : Một số vấn đề chung về phương pháp giảng dạy bài thực hành Vật lí giảng dạy ở trường trung học cơ sở chủ yếu là vật lí thực nghiệm: Mọi kết luận của nó đều rút ra từ thí nghiệm hoặc được kiểm tra lại bằng thí nghiệm. Thí nghiệm cung cấp cho ta dữ liệu cảm tính về giới tự nhiên, dùng làm cơ sở cho những khái quát hoá đạt đến những dự đoán về những tính chất bản chất, nghiên cứu mối quan hệ khách quan phổ biến của sự vật hiện tượng, mặt khác thí nghiệm giúp kiểm tra tính chân thực của các dự đoán trừu tượng xem chúng có phù hợp với thực tiễn không. Trong thí nghiệm người ta làm cho hiện tượng xảy ra trong những điều kiện có thể khống chế được, thay đổi được, nhờ thế mà thí nghiệm có thể giúp ta dễ dàng xác định được nguyên nhân chính của mỗi hiện tượng, mối quan hệ giữa chúng, quan sát được hiện tượng trong trường hợp ít bị nhiễu, vì bị nhiều nguyên nhân chi phối. Đó là ưu điểm nổi bật của thí nghiệm so với quan sát tự nhiên. Thí nghiệm là phương tiện trực quan giúp học sinh nhanh chóng thu nhận được những thông tin chính xác, chân thực về thế giới tự nhiên hơn những phương tiện khác như lời nói, hình vẽ. Thí nghiệm thực hành cùng với sự phân tích lí thuyết làm cho học sinh hiểu được sâu sắc mối quan hệ giữa các khái niệm, định luật khái quát với thực tiễn, đó cũng là đặc trưng của tư duy vật lí. Sử dụng thí nghiệm thực hành đúng đắn sẽ giúp phát triển tư duy vật lí của học sinh. Thí nghiệm thực hành vật lí góp phần giáo dục kĩ năng tổng hợp làm cho học sinh được tận mắt nhìn thấy, tự tay lắp giáp vận hành những dụng cụ thiết bị, luyện tập kĩ năng thực hành. Đó là những chuẩn bị cần thiết cho việc tham gia sản xuất sau này. Do vậy phương pháp dạy bài thực hành là một yếu tố quyết định tạo cho các em có thói quen làm việc có kế hoạch, đúng quy trình để hình thành được tác phong công nghiệp, khơi dạy ở các em tính sáng tạo. Vậy làm thế nào để các em học sinh tiếp thu kiến thức nhanh và hình thành những kĩ năng cần có để áp dụng vào thực tiễn cuộc sống. Trong tiết thực hành giáo viên bao giờ cũng đóng vai trò chủ đạo, tổ chức các hoạt động nhận thức của học sinh. Học sinh chủ động quan sát, tìm tòi, quan sát giáo viên thao tác mẫu để tự mình tìm ra nội dung kiến thức dưới dạng các yêu cầu( lệnh) cụ thể do giáo viên đề ra. Từ đó học sinh vận dụng các kiến thức đã học tự đặt ra những tình huống trong quá trình vận dụng những kiến thức là lí thuyết vào thực hành có thể xấy ra và đặt ra những phương án có thể giải quyết các tình huống đó. Chính nhờ đó mà học sinh phải có kĩ năng quan sát, kĩ năng thực hành thành thạo, tư duy nhanh nhạy. Để đạt được mục tiêu trên đòi hỏi giáo viên phải chú trọng nhiều trong công tác soạn giảng. Giáo viên phải nắm vững kiến thức và sử dụng thành thạo các dụng cụ, vật liệu, thiết bị, phải biết kết hợp tốt các phương phấp nhằm phát huy tính tích cực, sáng tạo của học sinh. Chương 2: Thực trạng của việc thực hiện giảng dạy tiết thực hành trong chương I: điện học, vật lí 9. I. Những vấn đề chung về tình hình dạy, học các tiết thực hành môn vật lí 9 phần điện học. a. Thuận lợi: - Trường THCS Văn Sơn nằm trên địa bàn có trình độ dân trí tương đối phát triển. Nhà trường, đặc biệt là Ban giám hiệu luôn quan tâm sát sao đến công tác dạy và học của giáo viên cũng như đối với học sinh. - Nhà trường có hệ thống cơ sở vật chất tương đối đảm bảo cho việc dạy và học các bộ môn nói chung và bộ môn vật lí nói riêng. - Tổ chuyên môn có kế hoạch cụ thể, làm việc khoa học, tạo diều kiện cho các các giáo viên được giao lưu chuyên môn, trao đổi kinh nghiệm, từ đó không ngừng nâng cao chất lượng dạy và học. - Đa số học sinh đã làm quen với việc học môn vật lí ngay từ khi bước vào bậc THCS , các em đều rất tích cực, hứng thú học với bộ môn vật lí. b. Khó khăn: Trong chương I. Điện học. Vật Lí 9 nội dung các tiết thực hành thường phức tạp hơn các nội dung thực hành trong bài nghiên cứu lí thuyết mới, đòi hỏi học sinh thực hiện nhiều thao tác, n ... Phân chia học sinh thành các nhóm, quy định rõ vị trí, các dụng cụ vật liệu thiết bị cần thiết. Bước 2: Tiến hành thí nghiệm thực hành - Các nhóm làm thí nghiệm theo kế hoạch đã vạch: Lắp ráp thí nghiệm bằng sơ đồ, trình tự tiến hành các phép đo, các thao tác, ghi những kết quả đã quan sát được vào mẫu báo cáo. - Giáo viên cần đảm bảo cho mọi học sinh trong nhóm đều được làm thí nghiệm và tiến hành quan sát. Trong khi học sinh làm thí nghiệm, giáo viên cần theo dõi, giúp đỡ các nhóm gặp khó khăn, yêu cầu các nhóm lắp ráp đúng mới tiến hành các phép đo. - Mỗi học sinh tính toán độc lập theo những số liệu mà cá nhân đã thu thập được trong quá trình làm thí nghiệm, so sánh kết quả ở nhóm. - Các nhóm làm báo cáo về kết quả thí nghiệm, ghi rõ nhận xét của nhóm và so sánh kết quả thí nghiệm thu được với kiến thức vật lí đã học, hoàn thành báo cáo. Bước 3: Kết thúc thực hành - Yêu cầu học sinh nộp báo cáo thực hành - Giáo viên phân tích kết quả thí nghiệm của học sinh, có thể có các câu hỏi mở rộng, đào sâu nội dung thí nghiệm, giải đáp thắc mắc của học sinh (nếu có) - Giáo viên rút kinh nghiệm về cách làm thí nghiệm của học sinh, nhận xét về các mặt mạnh, yếu của các nhóm bao gồm: + Thái độ học tập + Thái độ thực hành. C2. Những chú ý khi dạy bài thực hành vật lí: - Giáo viên cần cho học sinh ôn tập trước ở nhà một số kiến thức vật lí liên quan tới nội dung thí nghiệm thực hành( chuẩn bị mẫu báo cáo), sau khi làm thí nghiệm thực hành cần cho học sinh đối chiếu kết quả thí nghiệm với kiến thức vật lí đã học và rút ra nhận xét. - Giáo viên cần tổ chức cho tất cả các học sinh đều được làm thí nghiệm - Chuẩn bị cho học sinh làm thí nghiệm một cách có ý thức, tránh tình trạng chưa chuẩn bị đầy đủ mà đã vội cho học sinh làm thí nghiệm. - Tổ chức cho học sinh làm thí nghiệm một cách trật tự, theo kế hoạch đã vạch, không làm hỏng đồ dùng thí nghiệm; - Giáo viên phải có kiểm tra, đánh giá kết quả bài thực hành đối với từng học sinh. IV. Hướng dẫn lập kế hoạch dạy một bài cụ thể Bài thực hành: “ Xác định công suất của các dụng cụ điện”.trong chương I. Điện học. vật lí 9 Qua quá trình nghiên cứu tôi đã xây dựng các bước thực hiện bài dạy thực hành : “ Xác định công suất của các dụng cụ điện”.trong chươngI, vật lí 9 qua các bước như sau: Bước1. Chuẩn bị thực hành : Hoạt động của học sinh Trợ giúp của giáo viên - Lớp phó học tập báo cáo sự chuẩn bị của các bạn trong lớp. - Học sinh cả lớp tham gia thảo luận các câu hỏi của phần 1 (mẫu báo cáo). Từng học sinh trả lời các câu hỏi đó, học sinh khác lắng nghe phần trả lời của bạn, so sánh với phần chuẩn bị bài của mình nêu nhận xét. - Học sinh nghe để biết được yêu cầu của tiết học. - Các nhóm ổn định đúng vị trí, nhóm trưởng phân công bạn thư kí ghi chép kết quả và các ý kiến thảo luận của nhóm mình, một số thành viên khác chịu trách nhiệm lắp thí nghiệm,đọc kết quả của thí nghiệm khi thực hiện. - Các nhóm học sinh nghe - Giáo viên gọi lớp phó học tập báo cáo việc chuẩn bị bài của các bạn học sinh trong lớp (GV yêu cầu mỗi học sinh phải có một mẫu báo cáo thực hành đã chuẩn bị) - Giáo viên tiến hành kiểm tra phần trả lời câu hỏi của học sinh trong mẫu báo cáo. Hướng dẫn học sinh thảo luận các câu hỏi đó. - Giáo viên nêu nhận xét chung việc chuẩn bị bài ở nhà của học sinh và nêu yêu cầu chung của tiết học này là: Thực hành xác định công suất của các dụng cụ điện. - Giáo viên chia lớp học thành bốn nhóm, phân công nhóm trưởng cho từng nhóm, yêu cầu nhóm trưởng phân công nhiệm vụ của các bạn nhóm mình, giáo viên giao dụng cụ cho các nhóm. - Giáo viên nêu yêu cầu chung của tiết thực hành về thái độ học tập, ý thức kỷ luật trước khi vào nội dung chính của bài học. Bước 2. Tiến hành thực hành. Thực hành 1: Xác định công suất của bóng đèn Hoạt động của học sinh Trợ giúp của giáo viên - Các nhóm học sinh quan sát hình 15. 1 SGK-42, tìm hiểu các dụng cụ và cách mắc các dụng cụ thí nghiệm. - Các nhóm thảo luận về mục đích của thí nghiệm và các bước tiến hành thí nghiệm trong phần 1. + Một vài nhóm nêu được mục tiêu chung của thí nghiệm này là: xác định công suất của quạt điện với các hiệu điện thế khác nhau. + Một vài nhóm nêu các bước tiến hành thí nghiệm như trong SGK-42. - Các nhóm học sinh quan sát sơ đồ thí nghiệm và các bước thí nghiệm cơ bản của GV để biết được cách mắc các dụng cụ và các bước tiến hành. - Các nhóm cùng tiến hành thí nghiệm dưới sự điều khiển của giáo viên, tất cả các thành viên trong nhóm đều tham gia mắc hoặc theo dõi, kiểm tra cách mắc của các bạn trong nhóm. Sau khi thấy mắc đúng mới tiến hành thí nghiệm. - Các nhóm đọc, ghi chép kết quả vào mẫu báo cáo. - Cá nhân học sinh hoàn thành bảng 1 của mẫu báo cáo, thảo luận thống nhất phần a, b. - Yêu cầu các nhóm học sinh quan sát hình 15.1 SGK-42, tìm hiểu sơ đồ mạch điện nhận biết các dụng cụ và cách mắc các dụng cụ. - Yêu cầu các nhóm nghiên cứu phần 1, để từ đó nêu mục đích và các bước tiến hành thí nghiệm. - Giáo viên gọi đại diện một vài nhóm nêu mục tiêu và các bước tiến hành thí nghiệm - GV treo bảng phụ có vẽ sẵn hình 15.1 SGK-42 theo sơ đồ mạch điện và các bước tiến hành thí nghiệm cơ bản của mục 1để học sinh nắm chắc các bước cần làm. - Giáo viên yêu cầu các nhóm làm thí nghiệm theo nội dung mục II. Phần 1. SGK- 42 Lưu ý cho học sinh khi làm thí nghiệm: +, Khi mắc mạch điện phải mắc đúng các dụng cụ. +, Phải điều chỉnh biến trở về giá trị lớn nhất trước khi đóng công tắc. +, Cần phải đọc kết quả đo trung thực chính xác ở các lần khác nhau. +, Sau khi mắc và kiểm tra các dụng cụ điện đã mắc đúng mới tiến hành các phép đo. - GV theo dõi, giúp đỡ các nhóm gặp khó khăn. - Giáo viên dành thời gian cho học sinh thảo luận hoàn thành bảng 1 của mẫu báo cáo. Thực hành 2: Xác định công suất của quạt điện Hoạt động của học sinh Trợ giúp của giáo viên - Các nhóm học sinh đọc phần 2. SGK-42, tìm hiểu mục đích,các dụng cụ thí nghiệm và các bước tiến hành thí nghiệm. - Các nhóm thảo luận về mục đích của thí nghiệm và các bước tiến hành thí nghiệm trong phần 2. + Một vài nhóm nêu mục tiêu chung của thí nghiệm này là: xác định công suất của bóng đèn với cùng một giá trị của hiệu điện thế. + Một vài nhóm nêu các bước tiến hành thí nghiệm như phần 2 trong SGK- 42. - Các nhóm học sinh quan sát sơ đồ thí nghiệm và các bước thí nghiệm cơ bản của GV để biết được cách mắc các dụng cụ và các bước tiến hành - Các nhóm tiến hành xác định công suất của quạt điện theo hướng dẫn của GV và hướng dẫn phần 2 .SGK-42. - Các nhóm đọc, ghi chép kết quả vào mẫu báo cáo. - Cá nhân học sinh hoàn thành bảng 1 của mẫu báo cáo, thảo luận thống nhất phần a, b. - Yêu cầu các nhóm nghiên cứu phần 2, để từ đó nêu được các dụng cụ thí nghiệm, cách mắc các dụng cụ, nêu mục đích và các bước tiến hành thí nghiệm. - Giáo viên gọi đại diện một vài nhóm nêu mục tiêu và các bước tiến hành thí nghiệm - GV treo bảng phụ có vẽ sẵn hình 15.1 SGK-42 theo sơ đồ mạch điện và các bước tiến hành thí nghiệm cơ bản của mục 2 để học sinh nắm chắc các bước cần làm. GV lưu ý cho học sinh: Lắp quạt điện vào giá cho chắc, lắp xong mới tiến hành thí nghiệm. - GV yêu cầu các nhóm học sinh làm thí nghiệm theo các bước đã hướng dẫn, đọc ghi chép kết quả vào mẫu báo cáo. - GV theo dõi học sinh mắc mạch điện, kiểm tra các điểm tiếp xúc, giúp đỡ các nhóm thực hiện còn yếu để kịp với tiến độ chung của lớp. - Giáo viên dành thời gian cho học sinh thảo luận hoàn thành bảng 2 của mẫu báo cáo. Bước 3. Kết thúc thực hành. - Các nhóm trưởng tiến hành thu báo cáo của các thành viên trong nhóm. - Đại diện các nhóm học sinh nêu lại từng nhận xét của nhóm mình (có dẫn chứng bằng số liệu), đối chiếu kết quả của các nhóm khác. - Các nhóm học sinh nghe GV nhận xét (Có thể có ý kiến trao đổi trên lớp với giáo viên). - GV yêu cầu nhóm trưởng thu báo cáo của nhóm mình. - GV yêu cầu học sinh nêu lại nhận xét: + Khi hiệu điện thế giữa hai đầu bóng đèn thay đổi thì công suất của bóng đèn có giá trị như nào? + Khi hiệu điện thế giữa hai đầu bóng đèn không thay đổi, thì công suất trung bình của quạt điện có thay đổi không? - GV đánh giá lại kết quả của các nhóm học sinh. - GV thu báo cáo thực hành của học sinh. - GV nhận xét rút kinh nghiệm với học sinh về: + Thao tác thí nghiệm. + Thái độ học tập. + ý thức kỷ luật. Kết quả sau khi áp dụng TT Lớp TSHS Giỏi Khá TB Yếu TS % TS % TS % TS % 1 9A1 44 15 34.1% 28 63.6% 1 2.3% 2 9A2 45 10 22.3% 30 66.7% 5 11% Thông qua việc vận dụng phương pháp giảng dạy tiết thực hành, tôi nhận thấy học sinh chuẩn bị báo cáo, chuẩn bị kiến thức liên quan cho bài thực hành đầy đủ, kĩ năng của học sinh được nâng lên rõ rệt thông qua việc lắp ráp thiết bị, sử dụng Ampe kế, Vôn kế, viết báo cáo thực hành, xử lí kết quả thí nghiệm nhanh và chính xác. Các nhóm học sinh đoàn kết tích cực, các em thảo luận sôi nổi, chất lượng bài thực hành đều đạt từ trung bình khá trở lên, không có bài có kết quả dưới trung bình. Tỉ lệ học sinh khá giỏi được nâng lên. Phần C: Kết luận Qua đợt thực nghiệm dạy học bài thực hành, tôi và các bạn đồng nghiệp đều nhận thấy kết quả học tập của học sinh được nâng lên rõ rệt, nhất là tỉ lệ học sinh khá giỏi. Các em rất hứng thú khi học môn vật lí, thể hiện việc học bài ở lớp, chuẩn bị bài ở nhà, chuẩn bị phương tiện cho việc học bài mới. Lớp học sôi nổi, kĩ năng quan sát, phân tích tìm tòi, so sánh của học sinh được nâng cao thể hiện qua thao tác thực hành, quan sát, tư duy. Giáo viên đã xây dựng cho học sinh phương pháp học tập bộ môn đúng đắn, học đi đôi với hành, học được ứng dụng vào trong thực tế cuộc sống.Với nhận thức đúng đắn,có phương pháp phù hợp, đó là: thực hiện dạy học theo hướng tích cực, nhằm phát huy năng lực tư duy, tính sáng tạo, phát triển nhân cách toàn diện cho học sinh. Tuy nhiên phương pháp này đòi hỏi giáo viên cần có nhiều nỗ lực trong chuyên môn, soạn giáo án theo hướng đổi mới lấy học sinh làm trung tâm của hoạt động học tập. Giáo viên giữ vai trò chủ đạo trong hoạt động nhận thức của học sinh, học sinh đóng vai trò tìm tri thức mới dựa trên cơ sở định hướng của giáo viên. Trên đây là một số phương pháp khi dạy bài thực hành trong môn vật lí lớp 9, được áp dụng tại trường THCS Văn Sơn huyện Văn Bàn Tỉnh Lào Cai. Tuy nhiên đây chỉ là ý kiến rút ra từ thực tế giảng dạy của bản thân tôi. Do vậy còn nhiều thiếu xót, rất mong được sự đóng góp ý kiến của các bạn bè đồng nghiệp gần, xa, tôi xin chân thành cảm ơn! Võ lao ngày 02 tháng 12 năm 2008 Người thực hiện đề tài Trần Đắc Huynh
Tài liệu đính kèm: