Nhóm truyện Sơn Tinh và kiểu truyện Sơn Tinh ở một số địa phương

Nhóm truyện Sơn Tinh và kiểu truyện Sơn Tinh ở một số địa phương

1. Truyện mẹ Sơn Tinh

Ngày xưa ở một làng Mường nằm dưới chân núi Lưỡi hái (1) có một người con gái vì quá xấu xí mà tuy hai mươi tuổi rồi vẫn không ai lấy. Nàng xấu xí đến nỗi bọn con cái nhà lang hễ trông thấy là nhặt đá ném. Chúng cấm nàng đến dự các buổi hội Mường. Cuối cùng chúng đuổi nàng ra khỏi Mường. Với hai bàn tay trắng, người con gái bơ vơ đi mãi vào rừng sâu. Bụng đói cồn cào mà chẳng có gì ăn. Thấy đàn chim Cút bỏ lại thóc ăn thừa, nàng lần đến nhặt thì chỉ toàn hạt lép. Cực thân, nàng bưng mặt khóc nức nở.

Cùng lúc ấy có Đại bàng thần làm vua xứ núi bay qua. Nghe rõ tiếng khóc than của người con gái, chim thần động lòng, sải cánh bay tới trên đầu nàng. Đại bàng bay lên bảy lần, bay xuống bảy lần rồi cất tiếng âm động núi rừng khuyên cô gái: “Đừng buồn sợ chi cả! hãy nhặt nắm thóc lép mà đàn chim Cút bỏ lại, gắng đi ngược lên đầu con suối Cái, tìm mảnh đất nào rộng ba vuông thì gieo xuống, cứ mỗi góc tra ba hạt, giữa ruộng tra bảy hạt, chỗ hạt còn lại thì đem theo, lội sang bên kia đầu ngọn suối, tìm cây đa to xùm xoè bảy rễ, chọn hốc to làm nhà ở, hốc nhỏ làm chỗ cất hạt thừa. Ta sẽ luôn luôn giúp đỡ nàng chớ lo buồn gì cả!”

 

doc 11 trang Người đăng phuongnga36 Lượt xem 736Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem tài liệu "Nhóm truyện Sơn Tinh và kiểu truyện Sơn Tinh ở một số địa phương", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Dưới đây là một số bản kể về nhóm truyện Sơn Tinh và kiểu truyện Sơn Tinh ở một số địa phương
ơ
1. Truyện mẹ Sơn Tinh
Ngày xưa ở một làng Mường nằm dưới chân núi Lưỡi hái (1) có một người con gái vì quá xấu xí mà tuy hai mươi tuổi rồi vẫn không ai lấy. Nàng xấu xí đến nỗi bọn con cái nhà lang hễ trông thấy là nhặt đá ném. Chúng cấm nàng đến dự các buổi hội Mường. Cuối cùng chúng đuổi nàng ra khỏi Mường. Với hai bàn tay trắng, người con gái bơ vơ đi mãi vào rừng sâu. Bụng đói cồn cào mà chẳng có gì ăn. Thấy đàn chim Cút bỏ lại thóc ăn thừa, nàng lần đến nhặt thì chỉ toàn hạt lép. Cực thân, nàng bưng mặt khóc nức nở.
Cùng lúc ấy có Đại bàng thần làm vua xứ núi bay qua. Nghe rõ tiếng khóc than của người con gái, chim thần động lòng, sải cánh bay tới trên đầu nàng. Đại bàng bay lên bảy lần, bay xuống bảy lần rồi cất tiếng âm động núi rừng khuyên cô gái: “Đừng buồn sợ chi cả! hãy nhặt nắm thóc lép mà đàn chim Cút bỏ lại, gắng đi ngược lên đầu con suối Cái, tìm mảnh đất nào rộng ba vuông thì gieo xuống, cứ mỗi góc tra ba hạt, giữa ruộng tra bảy hạt, chỗ hạt còn lại thì đem theo, lội sang bên kia đầu ngọn suối, tìm cây đa to xùm xoè bảy rễ, chọn hốc to làm nhà ở, hốc nhỏ làm chỗ cất hạt thừa. Ta sẽ luôn luôn giúp đỡ nàng chớ lo buồn gì cả!”
Người con gái làm theo lời chim dạy, rồi rải lá làm đệm nơi hốc to gốc đa nằm ngủ một giấc ngon lành. Hôm sau thức giấc nàng đã thấy hương nếp ngào ngạt bay từ hốc nhỏ sang. Nàng vội chạy tới nơi thì thấy hốc tràn đầy những hạt thóc nếp vàng choé. Nàng vội kiếm nứa làm cơm lam ăn một bữa no nê, đoạn lội suối tìm sang mảnh ruộng ba vuông thì thấy lúa đã lên xanh mơn mởn. Từ đó nàng có thóc nhiều ăn không hết.
Một năm trời hạn kéo dài, lúa Mướng trong, Mường ngoài chết cả, riêng lúa ở mảnh ruộng ba vuông nọ là vẫn to, vẫn mẩy. Mọi người trong Mường, cả bọn nhà lang đều kéo đến đây xin thóc. Người con gái vui vẻ cứu giúp tất thẩy. Khi hạn hán đã qua, vụ mùa mới lại đến, sau lúc thu hoạch, dân Mường mở hội cơm mới. Nhớ hội, người con gái xấu xí lại tìm về làng. Nhưng bọn con cái nhà lang bội bac lại lấy đá đuổi nàng đi.
Buồn tủi, nàng lại lần về gốc đa ngồi than khóc và chỉ ước sao có đứa con cho bớt cô quạnh, rồi nàng ngủ thiếp đi. Sớm hôm sau như thường lệ, nàng ra thắm ruộng. Nhưng hôm nay nàng cảm thấy trong lòng nhẹ nhõm khác thường, bước đi nhanh nhẹn. Cũng từ hôm ấy, nơi ruộng ba vuông, ngày ngày Đại bàng xòe cánh che mát trên đầu cô gái, viền quanh sải cánh là lớp lớp cầu vồng ngũ sắc đan xen rực rỡ. Chín ngày sau, người con gái có thai.
Người con gái Mường mang thai đã ba năm ba tháng mà vẫn chưa sinh nở. Trời lại nằng hạn, lúa quanh vùng lại chết và lại chỉ còn lúa nơi mảnh ruộng ba vuông là vẫn mẩy. Tức quá, bọn nhà lang lấy cớ nàng không chồng mà chửa đuổi nàng đi nơi khác. Thế là người con gái tội nghiệp lại phải ra đi lúc bụng mang dạ chửa. Trước lúc bỏ đi, nàng đứng trên một tảng đá lớn, đầm đìa nước mắt nàng cất tiếng rủa nguyền bọn người độc ác, vô ơn, cướp không mảnh ruộng cùng gốc đa to của nàng. Nàng đứng khóc suốt ba ngày, nước mắt chảy đầy suối Cái thành cơn lũ lớn, đá dưới chân nàng đứng lõm xuống thành vệt to. Bỏ đi lang thang rừng này núi nọ, đến ngày thứ chín nàng trở dạ. Nơi nàng dừng lại nằm giữa một cánh đồng rộng tít tắp tới tận bờ một con sông chảy ngược (2), bờ bên kia là một ngọn núi đứng đơn độc, sừng sững, uy nghiêm, đỉnh chạm tới trời (3). Nàng đến nằm trên một phiến đá phẳng, rộng. Bỗng đất trời chuyển động, một cơn giông dữ dội nổi lên. Riêng chỗ nàng nghỉ, mây lành rực rỡ bao quanh. Trên cao Đại bàng hiển hiện, xòe cánh che gió mưa. Lớp lớp rừng cây từ xa chạy tới, đứng ken thành hàng bao quanh nàng che gió, che giông. Nàng trở dạ chín ngày, giông bão cũng chín ngày. Đêm cuối, trời quang mây tạnh, phiến đá nơi nàng nằm sáng rực lên. Nửa đêm đau quá nàng bèn quì xuống mặt đá rồi sinh ra một đứa con trai đẹp lạ lùng, tóc đen như mun, da đỏ tựa bồ quân chín. Vừa sinh ra, đứa bé đã nói cười, rồi vươn mình đứng dậy chắp tay lạy mẹ và thưa rằng: “Mẹ ơi! Ta hãy tìm về hòn núi cao sừng sững bên kia sông, nơi đó con sẽ làm nương nuôi mẹ!”
Mừng rỡ, nàng đứng dậy ngẩng tìm chim thần để từ tạ thì chim thần đã bay về núi cũ. Người mẹ bước theo đứa con đang phăm phăm đi như không biết mỏi. Hai mẹ con đi tới đâu, dân hai bên đường đều nô nức đón chào, đem cho cơm ăn áo mặc, công, phượng từng đàn múa hát, hổ, báo, tê giác đem dâng quả lạ để mẹ con ăn đỡ khát Sau ba ngày đi, mẹ con đến được bờ con sông rộng. Đàn voi rừng đem tặng chiếc bè gỗ để mẹ con vượt sóng. Đến chân núi, hai mẹ con dnừg lại sinh sống.
Người già ở các làng Mường, Cự Thắng, Tất Thắng, Đồng Luận ngày nay còn kể chuyện này và nói thêm: Đến sinh sống nơi ngọn núi khổng lồ đứng đơn độc có tên là Tản Viên ấy, đứa bé được một vị tiên trên núi mình dài chín thước, râu tóc bạc phơ cho cây gậy thần đầu sinh đầu tử. Lớn lên, đứa bé thành một chàng trai cường tráng, trở nên một vị tướng trụ cột của Vua Hùng. Người đời gọi chàng là Sơn Tinh, còn người đàn bà nọ là mẹ Sơn Tinh.
Bây giờ ở làng Cự Thắng (Thanh Sơn - Vĩnh Phú) hiện còn một phiến đá to in hình hai vết chân người. Tương truyền đó là vết chân của người con gái nghèo khổ năm xưa đứng khóc suốt ba ngày rủa nguyền bọn nhà lang tàn ác Còn ở Đồng Luận (Tam Thanh - Vĩnh Phú) vẫn còn phiến đá, trên mặt có hai vết lõm tròn, nơi mẹ chàng Sơn Tinh quì gối trong đêm sinh nở.
(Ghi theo Hoàng Quý - Truyện cổ Mường Châu Phong, tập I - Sở Văn hoá và thông tin Vĩnh Phú xuất bản 1984) 
2. Niếc tà Phờ - num, Niếc - tà Tức (1)
Thuở ấy một nhà vua nọ có một nàng công chúa, tuổi vừa đôi mươi, xinh đẹp vô cùng. Tiếng đồn về công chúa lan truyền đi khắp nơi, từ biển xa đến núi cao.
Một hôm, Niếc - tà Phờ - num nghe tiếng đồn về công chúa xinh đẹp, bèn mang lễ vật đến xin cưới công chúa làm vợ. Nhà vua thấy Niếc - tà Phờ - num mặt mũi khôi ngô, ăn nói đĩnh đạc, hoạt bát nên thuận gả công chúa cho chàng.
Trong lúc lễ cưới linh đình giữa Niếc - tà Phờ - num và công chúa đang diễn ra ở cung vua thì có tin Niếc - tà Tức ở tận biển Đông, vì nghe đồn công chúa xinh đẹp nên cũng mang lễ vật đến hỏi nàng.
Song vì đến chậm, Niếc - tà Tức đành phải mang lễ vật trở về. Tức giận kẻ đã nhanh chân trước mình có một bước mà được người đẹp, Niếc - tà Tức bèn làm phép dâng nước lên cao, dấy lên những đợt sóng thần cuồn cuộn ập vào tới tấp nhằm uy hiếp kinh thành để cướp lại cho bằng được công chúa.
Nhưng Niếc - tà Phờ - num cũng chẳng phải tay vừa. Chàng đã đem hết tài năng để bảo vệ hạnh phúc vừa đạt đượcvà cũng để tỏ cho vua cha thấy được tài nghệ của mình. Niếc - tà Phờ - num đã dùng phép thuật xây một bức tường đá vững chắc quanh cung thành để chống lại những đợt sóng thần ồ ạt và dồn dập của Niếc - tà Tức. Hễ nước bên ngoài dâng càng cao, thì thành càng được tăng thêm một mức, hễ sóng càng lớn, thì thành càng được bồi trát vững chắc hơn.
Cuộc đọ sức của đôi bên diễn ra khá ác liệt và dai dẳng nhiều ngày, làm cho ruộng vườn, đất đai ngập nước lênh láng.
Cuối cùng Niếc - tà Tức thấy không thể thắng được đối phương đành phải rút nước, đưa sóng về biển. Tuy vậy, lòng tức giận vì không lấy được công chúa vẫn không thể nào nguôi ngoai trong lòng Niếc - tà Tức. Cho nên hàng năm thỉnh thoảng Niếc - tà Tức vẫn dâng nước lên đánh với Niếc - tà Phờ - num. Và khi hai bên đánh nhau như thế thường gây ra lụt lội làm thiệt hại hoa màu, cây trái của nhân dân vô kể.
Ghi theo lời ông Sơn Quân - Giềng Tranh - tỉnh Cửu Long
(Truyện cổ Khơ- Me Nam Bộ, sưu tầm Huỳnh Ngọc Trảng, biên soạn Huỳnh Ngọc Trảng, Nguyễn Liệu)
3. Vua Cả núi Tản Viên
Khi xưa, ở Mường Trắng, Mường Vành có một người nông dân mỗi khi đi làm thường hát các điệu dân ca Mường. Một hôm bác đi cày mang theo cả một bu vịt con, vừa cày ruộng bác vừa chăn vịt con và hát mo, hát mỡi. Bỗng dưng có người lạ mặt dáng điệu vội vã đến nói với bác:
- Đằng kia có người sắp chết. Nhờ bác đi cứu giúp hộ ngay.
- ở dâu?
- Mời bác đi với tôi
Bác ta theo người lạ đi được mấy bước rồi chợt nhớ ra công việc của mình, bác dừng lại hỏi:
- Tôi đi còn vịt, còn trâu của tôi thì sao?
- Bác không ngại, nếu mất tôi xin đền bác.
Hai người đi ra phía bờ sông. Người lạ mặt dẫn bác đến khúc sông Bến Kỵ sông Vành, họ cứ thẳng khúc sông đi tới. Họ đi đến đâu nước rẽ thành đường đến đó. Đi một hồi lâu hai người đến cung điện của vua Khá. Con gái nhà lang Mưỡng Trắng, Mường Vành là nàng ả Trắng lấy con trai vua Khá ở đó. Thấy có khách lạ, nàng ra chào đón. Biết khách là người trần gian, nàng kể cho khách nghe tình cảnh của mình:
- Từ ngày tôi lấy chồng con vua Khá dưới này không về thăm quê ngoại được. Nhớ bố, mẹ, nhớ cảnh Mường ta lắm. Tôi mong mãi mới sinh được chút con gái thì nó lại ốm đau luôn. Thầy thuốc dưới này không ai chữa được. Bác đã xuống tới dưới đây nhờ bác chữa giúp cháu.
- Cháu ở đâu nàng dẫn tôi đến xem?
Nàng ả Trắng dẫn người khách lạ đến chỗ con nằm. Bác ta xem xét một lát, thấy đứa bé bị mắc lưới cá của trần gian. Cổ nó bị quấn chặt vào nên khó thở. Bác nói với ả Trắng:
- Nàng không lo, tôi sẽ chữa cho.
Nói xong, bác lấy dao khẽ cắt các mắt lưới quấn ở cổ đứa bé. Cắt đến đâu đứa bé dễ chịu đến đấy. Và đến khi các mắt lưới quấn trên người nó bị cắt hết thì đứa bé khỏi bệnh.
Thấy đứa bé khỏi bệnh, một người ở dưới thủy cung mách với bác:
- Họ cho gì bác đừng lấy, chi nên xin con dao mòn thôi. 
Quả đúng vậy, ả Trắng thấy con khỏi bệnh, mang rất nhiều của cải vàng bạc ra tạ ơn bác. Bác không nhận, chỉ xin một con dao mòn. ả Trắng không biết đối xử ra saoliền tâu lại với vua Khá, vua Khá ưng thuận nhưng hẹn khi bác chết thì lấy lại con dao đó. Rồi vua Khá mở tiêc chiêu đãi bác. Sau đó cho người đưa bác về trần gian.
Bác về chỗ ruộng đang cày dở, trâu cày và vịt con vẫn còn nguyên. Về nhà, bác kể lại truyện cho con trai cả và người con nuôi biết. Họ đem dao cất kỹ ở một nơi, khi cần mới đem ra dùng và chẳng bao lâu nhà bác trở nên no ấm, giàu có.
Năm tháng trôi qua, bác đã trở nên già yếu và ốm đau luôn. Đến một năm bác ốm nặng, cơ hội nguy hại đến tính mệnh. Được tin đó, vua Khá cho người lên chờ khi bác tắc thở để lấy lại con dao thần. Người dưới thủy cung lên cứ ngồi lì bên cạnh người ốm để chờ lấy dao. Người con trai cả cũng ngồi đấy để chăm sóc bố. Hai người ngồi hai bên, con dao để trên đầu người ốm. Nhân lúc người thủy cung mải ngoảnh đi chỗ khác, thấy người em nuôi đang thả trâu đi ăn, người con trai đút con dao vào quả chuối đưa qua lỗ sàn nhà cho đứa em nuôi và bảo: “Cho mày quả chuối đi chăn trâu mà ăn này”. Đứa em biết ý cầm quả chuối đi chăn trâu. Lúc ngoảnh lại người thủy cung không thấy con dao đâu nữa. Y tìm kiếm khắp nhà cũng không thấy, vội vàng về báo với thủy cung. Được tin, vua Khá hóa phép truy tìm. Người con nuôi kia chạy đến đâu nước ngập đến đấy. Chàng chạy lên gò, nước dâng lên ngập gò. Chàng chạy lên đồi, nước dâng lên ngập đồi. Chàng chay lên đỉnh núi Trắng, nước dang lên ngập đỉnh núi Trắng. Theo bước chân của chàng, nước cứ dâng lên mãi. Núi, đồi ở Mường Trắng, Mường Vành vá các vùng xunh quanh ngập hết cả, chỉ còn ngọn núi Ba Vì ở phía xa xa là vẫn hiên ngang chống trời. Nhớ tới dao thần, chàng ước có con ngựa gió để bay về núi Tản Viên. chàng vừa nói dứt lời thì có con ngựa gió bay tới. Phóng trên lưng ngựa theo làn gió thổi, chỉ trong nháy mắt chàng đã tới đỉnh núi Tản Viên cao ngất. Tuy núi Tản Viên cao vậy, nước cứ dâng theo, chàng lại rút dao thần ước cho nước cạn xuống. Cuối cùng vua Khá phải cho nước rút đi. Nước cạn, chàng không về Mường Trắng, Mường Vành nữa. Chàng ở lại núi Tản Viên và làm con của Quốc Mộu. Trong số những người con của Quốc Mộu, chàng được tôn kà con cả. Về sau chàng làm vua gọi là vua Cả. 
Bùi Thiện sưu tầm và biên soạn (Truyện cổ Mường - Nhà xuất bản Văn hóa dân tộc - Hà Nội 978)
Mường Vành, Mường Trắng thuộc xã Yên Phú, huyện Lạc Sơn (tỉnh Hà Sơn Bình cũ). ở đây có sông Vành, sông Trắng chảy qua. Con sông còn có tên chung là sông Tang bởi lẽ uốn dòng quanh chòm Tang, Mường Trắng. (Tang có thể là biến âm của Trắng). Sông Tang là tên trên bản đồ. Song Vành, sông Trắng là tên dân gian. Sông Trắng chảy men theo triền một dãy núi có tên là dãy núi Trắng.
ở dãy núi Trăng có chùa hang. Chơi hội chùa hang là một phong tục lâu đời của đồng bào miền núi.
4. Hòn đá voi
Tục truyền rằng, ngày xửa ngày xưa ở miền núi Nghệ An có hai mỏ quý của một vị Thần Núi. Dân bản trong vùng Thần Núi che chở thường đến lấy bạc, lấy vàng về làm vòng cổ, vòng tay cho các cô gái và bít coóc cho các chàng trai. Ngày này qua ngày khác, từng đoàn người ùn ùn kéo nhau lên núi, khi trở về trong những chiếc gùi của họ ngọc ngà châu báu nhiều vô kể, thế mà kho của vẫn chẳng vơi đi chút nào. Tin đó lan nhanh đến miền xuôi. Thần biển thèm lắm bèn rắp tâm đánh cướp. Thần phái một đoàn quân hùng mạnh gồm cá kình, cá mập, cá he, cua càng, tôm hùm với giáo mác chỉnh tề kéo một trăm chiếc thuyền to vượt sông Lam lên đánh cướp. Tai họa bất ngờ đổ xuống mà Thần Núi vẫn còn chơi bên nước bạn. Dân bản vội vượt trăm khe ngàn suối sang báo cho Thần hay. Được tin, Thần Núi vô cùng bực tức. Thần bước những bước chân khổng lồ từ đỉnh núi nọ sang đỉnh núi kia trở về. Thần vội tập hợp đàn voi của mình lại và chọn những con to khoẻ nhất cho đứng giữa dòng sông để chặn đường về cả đoàn quân cướp biển. Xong xuôi, thần cho số voi còn lại xông đánh vào hai mỏ quý. Lúc đó, lũ quân của thần biển đang xếp vàng bạc vào những chiếc thuyền lớn. Bị đàn voi xông tới đánh bất ngờ, chúng trở tay không kịp liền quay đầu xuôi dòng sông Lam về biển. Về đến vùng mà nay gọi là xã Bồng Khê, chúng lại gặp một đàn voi nữa. Đàn voi này đứng chắn giữa dòng sông, kín cả một khúc sông, làm cho nước sông Lam dâng cao rồi ào ào đổ xuống như một cái thác. Chưa biết đối phó ra sao thì đàn voi sau đã kéo tới. Bị ép vào giữa, bị đánh giết tơi bời, đoàn quân của Thần Biển không mọtt tên sống sót. Xác chúng trôi lềnh bềnh về biển.
Thần Biển giận lắm, dâng nước, cho quân lên đánh báo thù nhưng không ăn thua gì.
Thắng trận, Thần Núi mở tiệc khao mừng các dũng sĩ voi. Thần cho đàn voi của mình rất nhiều vàng bạc.
Ngày nay, sở dĩ voi có ngà là do bạc của thần núi thưởng cho. Và ở dĩ có bến gỗ gần thị trấn Con Cuông có “hòn đá voi” nằm giữa sông Lam cũng là do Thần Núi muốn “cắm” một phần đàn dũng sĩ của mình ở đó để hàng năm chống trả với thần biển khi thần biển đem quân lên đánh báo thù và cướp vàng bạc.
Phạm Tuấn Anh biên soạn theo “Truyện cổ Thái” Nhà xuất bản Văn hóa Hà Nội 1980. 
Truyền thuyết Sơn Tinh ở Hà Tõy
Ngày xưa, cú một người tiều phu cứ sỏng tinh mơ thỡ vỏc bỳa vào rừng đốn củi. Mọi lần, anh chặt một ớt cõy khụ ở rừng, được nặng gỏnh thỡ trở về; nhưng lần này anh định chặt thờm một cõy gỗ cứng để đem về chống tỳp lều tranh, nờn anh phải đi vào rừng sõu. éang đi, anh chợt nghe cú tiếng trẻ khúc. Anh đứng lại nghe xem tiếng khúc ấy ở đõu đưa lại thỡ thấy ở phớa trước mặt, dưới một lựm cõy to, cú một con dờ rừng rất lớn đang lấy chõn trước bới một đống cỏ khụ, tiếng trẻ khúc ở đống cỏ đưa ra. 
Người tiều phu rún rộn đến nấp sau một gốc cõy lớn ở gần xem con dờ làm gỡ. Con vật bới đống cỏ rất nhẹ nhàng, lũi dần ra một đứa trẻ cũn đỏ hỏn, bụ bẫm, rồi nú nằm xuống cho đứa trẻ bỳ. éứa trẻ rớt lấy rớt để bầu sữa căng, một chốc con dờ đứng dậy liếm mớ túc bờm xờm của đứa trẻ rồi chạy đi. Con dờ vừa đi khỏi thỡ một đàn chim bay đến phủ những cỏ khụ lờn người đứa bộ, chỉ trong chớp mắt lại bay vự cả đi. 
Người tiều phu lẩm bẩm một mỡnh: "Số mệnh đứa trẻ này thật kỳ lạ." Anh đến bới đống cỏ khụ, thỡ thấy là một đứa con trai. Anh bế lấy, đem về nuụi. éứa bộ rất chúng lớn, người tiều phu chăm nom như con đẻ cú một số mệnh kỳ lạ, anh đặt tờn cho nú là Kỳ. 
Lớn lờn, Kỳ rất khoẻ mạnh. Ngày ngày Kỳ vỏc bỳa theo cha nuụi vào rừng đốn củi. Một hụm, Kỳ chặt một cõy lớn đến hai người ụm, chặt từ sỏng tinh mơ đến nhỏ nhem tối mà vẫn chưa xong, nờn đành bỏ dở ra về. Sỏng hụm sau, đến gốc cõy định chặt tiếp thỡ anh hết sức ngạc nhiờn: Cỏi cõy lớn chặt dở hụm qua bõy giờ lại liền ruột liền vỏ như chưa cú một vết bỳa nào chạm đến. Thấy thế, Kỳ khụng ngả lũng, anh lại giỏng những nhỏt bỳa thật mạnh vào chỗ thõn cõy đó chặt hụm trước. Tuy anh gắng hết sức, nhưng đến nhỏ nhem tối anh vẫn chưa hạ xong cõy. Sỏng sớm hụm sau, Kỳ lại vỏc bỳa định tiếp tục cụng việc cũn bỏ dở thỡ anh thấy vết chặt hụm trước hụm nay lại liền như cũ. Anh khụng nản chớ, lại bắt đầu chặt, nhưng đến lỳc nhọ mặt người, anh vẫn chưa chặt xong. Lần này anh khụng về. Anh leo lờn một cõy gần để rỡnh xem ban đờm cõy tự liền da liền thịt như thế nào. 
éến nửa đờm trăng sao vằng vặc đầy trời, bỗng cú một ụng già chống gậy đi từ từ đến cỏi cõy chặt dở. ễng cụ cầm gậy chỉ vào cõy, trong chớp mắt vết chặt lại liền như cũ. Kỳ vội tụt từ trờn cõy xuống, chạy đến hỏi ụng cụ: 
- Tụi khú nhọc mới sắp hạ được một cõy lớn, sao cụ lại phỏ hỏng cụng việc của tụi như thế ? 
ễng cụ đỏp: 
- Ta là Thỏi bạch tinh quõn đõy, ta khụng muốn người chặt cõy cổ thụ này. Thụi ta cho ngươi cỏi gậy ngươi đi tỡm cõy nhỏ mà chặt. 
Núi xong ụng cụ trao cho Kỳ cỏi gậy chống ở tay rồi biến mất. 
Một hụm đi chơi men sụng, Kỳ nhỡn thấy con rắn lớn bị đỏnh dập đầu, đó chết từ lõu, Kỳ cầm gậy chỉ vào đầu rắn, thốt nhiờn rắn sống lại vẫy đuụi, ngẩng đầu lờn nhỡn Kỳ rồi bũ xuống sụng mất. 
Một buổi tối Kỳ đang ngồi trong lều tranh thỡ một chàng thanh niờn tuấn tỳ khăn ỏo chỉnh tề, đem chõu bỏu đến tạ ơn Kỳ. Chàng xưng là Tiểu Long hầu con Long Vương ở biển Nam, bị trẻ chăn trõu đỏnh dập đầu chết ở bờ sụng và được Kỳ cứu sống hụm nọ. Kỳ nhất định khụng nhận lễ vật. Chàng thanh niờn cú ý băn khoăn, cố mời Kỳ xuống thủy cung chơi. Chàng đưa cho Kỳ một ống linh tờ để rẽ nước đi xuống. éược Kỳ xuống chơi, Long Vương rất lấy làm mừng rỡ, mở yến tiệc linh đỡnh thết đói. éến khi về, Long Vương đưa tiễn đủ cỏc thứ vật lạ dưới biển, nhưng Kỳ nhất định khụng nhận. Sau Long Vương lấy ở trỏp ra một quyển sỏch núi với chàng rằng: 
- Ngài cứu sống con lóo, lóo khụng biết lấy gỡ đỏp lại. Nay biếu vật gỡ ngài cũng khụng nhận, lóo xin cú quyển sỏch này tặng ngài. Dựng quyển sỏch này, ngài sẽ ước gỡ được nấy. 
Kỳ nhận sỏch ước và trở lại trần gian. 
Từ đú, Chàng cầu được ước thấy, cú phộp biến hoỏ trở nờn một vị thần cứu nhõn độ thế. Thần đi qua cửa bể thần phự, theo dũng sụng lớn, đổ ngược mói lờn, tỡm nơi đất cao phong cảnh đẹp để cắm chỗ ở. éến một nơi thấy cú một ngọn nỳi cao chút vút ba tầng, trũn như cỏi tỏn, thần hoỏ phộp mở một con đường qua cỏc động và cỏc suối lờn đỉnh nỳi và hoỏ phộp thành lõu đài để ở. Khi đó định cư rồi thần thường xuống nỳi đi xem khắp phong cảnh đẹp và dựng phộp cứu nhõn dõn rất nhiều. Ngọn nỳi thần ở là nỳi Tản Viờn, nờn người ta gọi thần là thần Tản Viờn hay Sơn Tinh .

Tài liệu đính kèm:

  • docTruyen thuyet Ha TayVB Son Tinh Thuy Tinh.doc