Kinh nghiệm sử dụng kiến thức thực tiễn cuộc sống trong giờ dạy môn Giáo Dục Công Dân

Kinh nghiệm sử dụng kiến thức thực tiễn cuộc sống trong giờ dạy môn Giáo Dục Công Dân

Dựa trên những quy luật của quá trình giáo dục, những kinh nghiệm thực tiễn giáo dục, người ta xây dựng được hệ thống các nguyên tắc giáo dục. Một trong số các nguyên tắc đó là nguyên tắc cần bảo đảm giáo dục phải gắn với thực tiễn đời sống, với lao động. Tức là quá trình giáo dục phải góp phần giáo dục, đào tạo người công dân, những người lao động hoà nhập được với cuộc sống nói chung với các hoạt động lao động sáng tạo nói riêng của đất nước. Mặt khác, chính bản thân cuộc sống, bản thân hoạt động lao động này lại là môi trường, là phương tiện góp phần tích cực vào sự hình thành và phát triển nhân cách những con người sống và làm việc trong đó. Vì vậy trong quá trình giáo dục nói chung và dạy-học môn GDCD nói riêng cần tổ chức cho người được giáo dục có những hiểu biết về cuộc sống nói chung, hoạt động lao động sáng tạo nói riêng của đất nước đang trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hoá, chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước; từ đó giáo dục cho họ những chuẩn mực đạo đức, chuẩn mực pháp luật, những kỹ năng, kỹ xảo cần thiết hình thành nên một nhân cách toàn diện của một người công dân mới ; giáo dục cho họ ý thức được đầy đủ vai trò làm chủ đất nước của mình và những nghĩa vụ mà họ phải hoàn thành với đất nước.

 

doc 23 trang Người đăng thanhmai123 Lượt xem 3106Lượt tải 1 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Kinh nghiệm sử dụng kiến thức thực tiễn cuộc sống trong giờ dạy môn Giáo Dục Công Dân", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
kinh nghiệm
sử dụng kiến thức thực tiễn cuộc sống trong giờ dạy môn giáo dục công dân
A- Đặt vấn đề:
I. Cơ sở lý luận: 
Dựa trên những quy luật của quá trình giáo dục, những kinh nghiệm thực tiễn giáo dục, người ta xây dựng được hệ thống các nguyên tắc giáo dục. Một trong số các nguyên tắc đó là nguyên tắc cần bảo đảm giáo dục phải gắn với thực tiễn đời sống, với lao động. Tức là quá trình giáo dục phải góp phần giáo dục, đào tạo người công dân, những người lao động hoà nhập được với cuộc sống nói chung với các hoạt động lao động sáng tạo nói riêng của đất nước. Mặt khác, chính bản thân cuộc sống, bản thân hoạt động lao động này lại là môi trường, là phương tiện góp phần tích cực vào sự hình thành và phát triển nhân cách những con người sống và làm việc trong đó. Vì vậy trong quá trình giáo dục nói chung và dạy-học môn GDCD nói riêng cần tổ chức cho người được giáo dục có những hiểu biết về cuộc sống nói chung, hoạt động lao động sáng tạo nói riêng của đất nước đang trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hoá, chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước; từ đó giáo dục cho họ những chuẩn mực đạo đức, chuẩn mực pháp luật, những kỹ năng, kỹ xảo cần thiết hình thành nên một nhân cách toàn diện của một người công dân mới ; giáo dục cho họ ý thức được đầy đủ vai trò làm chủ đất nước của mình và những nghĩa vụ mà họ phải hoàn thành với đất nước. 
Môn GDCD nói chung và môn GDCD ở THCS nói riêng là môn học có vai trò quan trọng trong việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân cho học sinh mà luật giáo dục đã quy định: “Mục tiêu của giáo dục phổ thông là giúp học sinh phát triển toàn diện về đức, trí, thể, mĩ và các kỹ năng cơ bản nhằm hình thành nhân cách con người Việt Nam XHCN, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân, chuẩn bị cho học sinh học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng, và vệ tổ quốc”. Môn học cung cấp cho học sinh một hệ thống chuẩn mực lối sống phù hợp với yêu cầu của xã hội ở mức độ phù hợp với lứa tuổi, giúp học sinh biết sống hoà nhập với cuộc sống hiện tại với tư cách là một công dân tích cực và năng động; góp phần quan trọng để hình thành những phẩm chất cần thiết của nhân cách con người Việt Nam nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước và tăng cường khả năng hội nhập trong xu thế phát triển và tiến bộ của thời đại.
Mỗi môn học đều có những đặc thù riêng, do vậy phương pháp giảng dạy ở mỗi môn học cũng có những nét khác biệt. Dạy học môn GDCD là một quá trình liên tục giáo viên tổ chức, hướng dẫn học sinh hoạt động tự chiễm lĩnh các giá trị, các chuẩn mực đạo đức, pháp luật thông qua việc nắm tri thức, qua thực hành trong và ngoài giờ học. Chính vì vậy nhiệm vụ dạy học môn giáo dục công dân không phải là truyền thụ tri thức, mà phải chú trọng tất cả các mặt, các nhân tố khác như hình thành niềm tin, tình cảm đạo đức, quan trọng nhất và cũng là mục đích cuối cùng là hình thành hành vi và thói quen đạo đức pháp luật ở mỗi học sinh.
Mặt khác dạy học môn GDCD phải nhằm tạo ra sự thống nhất giữa nhận thức và hành động, giữa lới nói và hành vi. Như vậy, môn GDCD cần phải đảm bảo cung cấp cho học sinh những phương thức ứng xử về đạo đức, pháp luật, văn hoá trong cuộc sống, hình thành ở mỗi học sinh sự thống nhất giữa nhận thức và hành động, hướng học sinh vào việc thực hành trong cuộc sống hàng ngày các chuẩn mực và mẫu hành vi tích cực mà bài học đặt ra; khơi dậy trong học sinh ý chí thể hiện sự thống nhất đó. 
Theo kết quả khảo sát thực tế của tôi ở một số lớp, những tiết dạy môn GDCD của giáo viên được đào tạo chính quy hầ hết học sinh không chỉ nắm chắc các khái niệm chuẩn mực đạo đức, pháp luật mà còn thể hiện được hành vi ứng xử linh hoạt, phù hợp với những chuẩn mực đó trước các tình huống thực tế đặt ra. Điều đó chứng tỏ trình độ, năng lực sư phạm của đội ngũ giáo viên dạy môn giáo dục công dân giữ vai trò quan trọng trong việc đổi mới phương pháp dạy- học môn GDCD ở THCS.
II.Cơ sở thực tiễn:
Hiện nay các bậc phụ huynh học sinh nói riêng và toàn xã hội nói chung rất bức xúc trước thực trạng một bộ phận thanh thiếu niên hiện nay có những biểu hiện tha hoá về đạo đức và lối sống, xa rời những thuần phong mỹ tục và dần lãng quên những nét đẹp truyền thống của dân tộc. Trong thực tế đã có xu hướng coi nhẹ hoặc phủ nhận những giá trị quý giá của truyền thống dân tộc, quý cái ngoại lai hơn bản sắc dân tộc; coi nặng giá trị vật chất, coi nhẹ giá trị tinh thần; cọi nặng lợi ích cá nhân, coi nhẹ lợi ích công cộng. Đây chính là những mặt trái của nền kinh tế thị trường. Cùng với sự sôi động của nền kinh tế hội nhập là sự du nhập của những phong cách, những lối sống mới đã tác động trực tiếp tới tầng lớp thanh thiếu niên -tầng lớp luôn thích khám phá và nhạy cảm với sự thay đổi của môi trường. Vấn đề đặt ra hiện nay là chúng ta cần trang bị cho thanh thiếu niên một “kĩ năng sống” có đủ khả năng đề kháng lại “ những cơn gió độc hại và những căn bệnh nguy hiểm” mà nền kinh tế thị trường mang lại. 
Xuất phát từ yêu cầu thực tế đó hiện nay, đòi hỏi sự nghiệp giáo dục nói chung và việc dạy- học môn GDCD ở THCS nói riêng cần có những điều chỉnh và thay đổi về nội dung chương trình cũng như phương pháp dạy- học để đáp ứng kịp thời sự vận động và phát triển không ngừng trong xu thế hội nhập của đất nước ta hiện nay. Chúng ta cần hình thành ở học sinh cho được những thói quen hành vi phù hợp với chuẩn mực đạo đức, chuẩn mực pháp luật và lối sống văn hoá trong các mối quan hệ mà cuộc sống hàng ngày đặt ra có liên quan đến các em; nhằm hình thành cho được một nhân cách hoàn thiện của một người công dân trong thời kỳ mới. 
Trong các môn học ở bậc THCS, môn GDCD có một vai trò hết sức quan trọng trong việc giáo dục và hoàn thiện nhân cách học sinh. Đây là môn học mà các tri thức, chuẩn mực, kỹ năng của nó đều gắn chặt với các sự kiện và chất liệu của cuộc sống hiện thực. Đó là những vấn đề đạo đức, lối sống và pháp luật hàng ngày. Đó còn là sự tác động qua lại giữa con người với con người, con người với thiên nhiên và giữa con người với các thể chế xã hội. Môn học có nhiệm vụ dạy cho học sinh vừa biết là một người cháu, người con ngoan trong gia đình, người trò giỏi ở trường, ở lớp và một người công dân biết sống hoà nhập với đời sống xã hội như một thành viên xã hội với những yêu cầu về đạo đức, pháp luật và lối sống văn hoá hiện đại.
Song hiện nay môn GDCD chưa được coi trọng ở bậc THCS. Thực tế môn GDCD còn nhiều bất cập. Tâm lý chung của các bậc phụ huynh học sinh, thậm chí cả những nhà quản lý giáo dục, rồi các thầy giáo, cô giáo cho đến cả các em học sinh đều cho đây là môn học phụ. Điều này tạo cho các em học sinh thái độ thờ ơ, không đầu tư thời gian, công sức cho việc tìm tòi, học tập và nghiên cứu một cách chủ động và say mê với môn học. ở nhiều nơi, các nhà trường còn buông lỏng quản lí việc dạy và học môn GDCD,ảnh hưởng không tốt đến tâm lý của thầy và trò. Mặt khác, các nhà trường cũng thiếu những biện pháp phù hợp và có hiệu quả nhằm động viên, khuyến khích giáo viên hăng say khai thác làm phong phú nội dung và phương pháp giảng dạy. Do vậy các tiết học thường khô khan, thể hiện sự giáo điều. Cũng vì thế trong giờ học, học sinh rất ít hoạt động, nếu có thì cũng chỉ tập trung vào một số câu hỏi do giáo viên đưa ra mang tính khái niệm. Những giờ học như vậy mang nặng tính chất lý thuyết khô cứng học sinh tiếp thu một cách thụ động . Vì vậy không gây được hứng thú cho học sinh trong và sau mỗi giờ học. Điều này tạo nên tâm lý không thích học môn GDCD, hoặc coi đây là môn học phụ “học sinh học lấy lệ” cho nên mục đích quan trọng là hình thành thái độ, tình cảm, niềm tin và những thói quen hành vi đạo đức, pháp luật phù hợp với chuẩn mực của cuộc sống hiện đại ngày nay bị hạn chế.
B- GiảI quyết vấn đề
i. Khảo sát môn GDCD ở THCS:
Cũng giống như các môn học khác, để dạy tốt được môn học mỗi giáo viên cần nắm được cấu trúc nội dung chương trình của phân môn xuyên suốt cấp học, để từ đó xây dựng kế hoạch giảng dạy cụ thể cho từng bài, từng chủ đề. Chỉ có làm như vậy, giáo viên mới chủ động đề ra các phương pháp cần tiến hành trong việc tổ chức, hướng dẫn và cung cấp tri thức, kinh nghiệm để học sinh chủ động lĩnh hội và vận dụng. 
Cấu trúc chương trình môn GDCD ở THCS có 2 phần chính :
- Phần đạo đức: bao gồm những chuẩn mực đạo đức (những phẩm chất, bổn phận đạo đức), thể hiện yêu cầu cơ bản về đạo đức đối với người công dân.
- Phần pháp luật: bao gồm quyền và nghĩa vụ của công dân trong các lĩnh vực chủ yếu của đời sống xã hội, phù hợp với phạm vi hoạt động và yêu cầu đối với lứa tuổi của học sinh trường THCS.
Cấu trúc chương trình mới có những điểm khác chương trình cũ:
- Chương trình cũ chia thành hai giai đoạn rõ rệt, lớp 6 và 7 học các chuẩn mực đạo đức, lớp 8 và 9 học các chuẩn mực pháp luật. Đó là điều bất hợp lí vì giữa đạo đức và pháp luật có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ và tác động lẫn nhau, học sinh cần đồng thời nắm vững hai chuẩn mực đó để có thể vận dụng trong cuộc sống. Vì vậy, chương trình mới bố trí cho học sinh học phần đạo đức ở học kỳ I, phần pháp luật ở học kỳ II trong tất cả các lớp, đảm bảo ở lớp nào học sinh cũng được học cả hai chuẩn mực của cả hai lĩnh vực trên và lĩnh hội được những phương thức ứng xử cần thiết nhất của người công dân trong xã hội.
- Trong chương trình cũ, nội dung không chia thành các chủ đề, còn trong chương trình mới, ở mỗi lĩnh vực nội dung đều chia thành các chủ đề. Chương trình có 8 chủ đề đạo đức và 5 chủ đề pháp luật, được bố trí xuyên suốt ở tất cả các lớp.
Về cấu trúc nội dung từng bài trong SGK mới cũng có những điểm khác so với SGK GDCD cũ. Nếu như trước đây ở SGK cũ mỗi bài chỉ có cấu trúc 2 phần : phần thông tin về khái niệm kết hợp với một số câu hỏi tìm hiểu và phần bài tập, thì nay SGK mới có cấu trúc phong phú hơn với 3 phần: Phần 1 đặt vấn đề (là các tình huống, câu chuyện, thông tin, sự kiện phong phú mang tính thực tiễn cao ) có liên quan đến nôị dung bài học, phần 2 nội dung bài học được thể hiện một cách ngắn gọn, xúc tích giúp học sinh dễ học, dễ nhớ, phần 3 bài tập với sự đa dạng của các dạng bài tập từ nhận biết, thông hiểu, tình huống,giúp học sinh luyện tập và củng cố nắm chắc bài học từ nhiều phương diện.
Với chương trình SGK cũ nội dung còn nặng về lý thuyết, ít thực hành và vận dụng thì giáo viên chủ yếu sử dụng là phương pháp thuyết trình với mục đích truyền thụ một cách máy móc, đầy đủ nhất các đơn vị kiến thức (các khái niệm) mang tính áp đặt giáo điều tới học sinh. Học ... gia: Toàn thể đoàn viên, đội viên của nhà trường.
g.Phương pháp nêu gương:
Một trăm bài diễn thuyết hay không bằng một tấm gương sống. Trong qúa trìng giáo dục nói chung và dạy học môn GDCD nói riêng không thể chỉ dựa vào lời nói và tư tưởng. Những tấm gương về hành động và hành vi đạo đức, pháp luật của những người khác trong xã hội có ý nghia to lớn. Vì vậy nêu gương tích cực là một phương pháp giáo dục có hiệu quả cao. 
ý nghĩa của phương pháp nêu gương tích cực đối với việc giáo dục là ở chỗ học sinh có khuynh hướng bắt chước và làm theo những hành vi và hành động mà các em cho là có ý nghĩa và có tác dụng củng cố giá trị của bản thân. Thực tế trong xã hội hiện nay bên cạnh những biểu hiện tiêu cực đương bị xã hội lên án, đã và đang xuất hiện nhiều tấm gương tích cực của con người Việt Nam năng động, sáng tạo, vươn lên chiến thắng nghèo khổ, bệnh tật, dốt nát, chiến thắng nguy cơ tụt hậu...
Khi sử dụng phương pháp nêu gương trong dạy- học cần lựa chọn các tấm gương qua đó học sinh có thể nhận thức một cách toàn diện lý tưởng đạo đức mới, lý tưởng kết hợp với tính tư tưởng và chính trị cao, chiều sâu của tình cảm đạo đức và sự trong sáng của hành vi . Vì vậy ta cần sử dụng không chỉ những tấm gương của những học sinh xuất sắc, những người sản xuất tiên tiến, những chiến sĩ bảo vệ tổ quốc, và các nhân vật trong các tác phẩm văn học mà cần nhấn mạnh rằng trong hoà bình và thời kỳ “mở cửa” hiện nay, khi tình trạng đạo đức đang bị xáo động thì những tấm gương “đời thường” rất cần được coi trọng.
VD: Tấm gương về cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Chí Minh có một sức mạnh to lớn trong việc giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh. Chúng ta có thể tổ chức một số hoạt động như nghiên cứu các tác phẩm của người, tổ chức các buổi nói chuyện, thảo luận để có thể khai thác đầy đủ những nét phẩm chất tốt đẹp của Người.
Những tấm gương về những người nông dân rất đỗi bình thường nhưng họ đã có những việc làm phi thường thể hiện tính: Năng động, sáng tạo.
- Anh nông dân Nguyễn Đức Tâm (Tỉnh Lâm Đồng) đã chế tạo thành công máy gặt lúa cầm tay, mặc dù anh không học qua một trường kỹ thuật nào.
- Bác Nguyễn Cẩm Lũy không qua một lớp đào tạo nào mà bác có thể di chuyển cả một ngôi nhà, cây đa. Bác được mệnh danh là:Thần đèn.
- Anh Nguyễn Ngọc Ký mặc dù bẩm sinh với đôi tay tật nguyền không làm việc được, nhưng với ý chí và nghị lực phi thường anh đã dùng chân cầm bút tập viết để học. Và sau này anh Nguyễn Ngọc Ký của chúng ta đã trở thành một thầy giáo ưu tú.
- Rồi bạn học sinh A ở trường chúng ta, hoàn cảnh gia đình rất khó khăn bố mất sớm, mẹ đi lấy chồng bạn phải ở với bà nội . Hàng ngày ngoài việc đi học, bạn còn phải làm rất nhiều việc để phụ giúp bà của mình . Vậy mà suốt 7 năm liền bạn luôn đạt danh hiệu là học sinh giỏi của trường.
Chúng ta biết rằng sẽ không có một phương pháp dạy học nào là tối ưu. Vì vậy trong quá trình dạy- học, tôi luôn kết hợp đa dạng các phương pháp dạy học vừa cổ truyền, vừa hiện đại. Và mục đích cuối cùng là học sinh hiểu bài cả về mặt lý thuyết cũng như khả năng vận dụng thực hành. 
Trên đây tôi vừa trình bày những quan điểm chung cùng một số hình thức và phương pháp tổ chức dạy- học môn GDCD luôn gắn liền với cuộc sống thực tế của học sinh mà bước đầu tôi đã đạt đựơc một số kết quả nhất định trong công tác giảng dạy của mình. 
IV.giáo án minh hoạ:
Tuần 11
Ngày soạn: 26/10 /2011
Ngày dạy:08/11 /2011
Tiết 12 – Bài 8
Năng động sáng tạo
(tiếp theo)
i- mục tiêu bài học:
Giúp học sinh nắm được:
1. Về kiến thức:
- Giải thích vì sao con người cần có đức tính năng động sáng tạo. 
2. Về kỹ năng:
- Phân biệt được những biểu hiện của năng động sáng tạo, thiếu năng động sáng tạo, biết đánh giá bản thân và người khác về tính năng động sáng tạo.
3. Về thái độ:
- Quý trọng những người sống năng động sáng tạo, ghét thụ động máy móc. Ham thích thể hiện năng động sáng tạo trong mọi việc, mọi hoàn cảnh.
ii- nội dung:
1.ý nghĩa của tính năng động sáng tạo trong cuộc sống.
2. Cách rèn luyện tính năng động sáng tạo.
III-Kĩ năng cần gd:
 KN:giải quyết vấn đề,tình huống,...
iV- tài liệu ,phương pháp và phương tiện dạy học:
- Những tình huống, ví dụ về năng động sáng tạo.
- Giấy khổ lớn, bút dạ.
- Bảng phụ.
- Các tình huống GDCD 9.
- Vở bài tập GDCD 9.
-PP:thảo luận,đàm thoại,...
v- các hoạt động dạy học:
1. ổn định lớp:
2. Kiểm tra bài cũ:
 ? Thế nào là năng động sáng tạo?
3. Bài mới:
* Giới thiệu chủ đề bài mới:
ở tiết trước chúng ta đã tìm hiểu và biết được năng động, sáng tạo là gì và biểu hiện của nó trong cuộc sống. Để hiểu rõ hơn về đức tính này chúng ta tiếp tục học bài hôm nay.
* Phát triển chủ đề:
	- GV ghi đầu bài lên bảng.
Hoạt động 1: Tìm hiểu nội dung bài học
Hoạt động dạy và học
Ghi bảng
? Em hãy nhắc lại thế nào là năng động sáng tạo? biểu hiện của năng động sáng tạo?
? Năng động sáng tạo có ý nghĩa như thế nào trong học tập, lao dộng và cuộc sống?
3.ý nghĩa:
- Là phẩm chất cần thiết của người lao động.
- Giúp con người vượt qua khó khăn.
- Nhờ năng động, sáng tạo mà con người làm nên nhiều kì tích vẻ vang, mang lại vinh dự cho bản thân, gia đình và cho đất nước.
Hoạt động 2: Thảo luận.
Hoạt động dạy và học
Ghi bảng
- GV nêu tình huống để HS thảo luận ( Có thể cho HS đóng vai qua quá trình chuẩn bị từ tiết trước): Giờ học nhóm, trong khi các bạn đang tập trung suy nghĩ, tranh luận về cách giải bài tập toán thì Tú lại lơ đãng, ngồi ngáp vặt hoặc vẽ lung tung ra giấy. Khi các bạn giải toán xong, Tú chỉ việc chép lại vào vở.
+? Hãy quan sát tiểu phẩm do các bạn đóng và nhận xét hành vi của nhân vật Tú và đặt biệt danh cho Tú?
- HS thể hiện tiểu phẩm, cả lớp quan sát.
- Trao đổi, nhận xét hành vi của nhân vật Tú.
- Biệt danh: Tú lười, Tú thụ động, Tú ỷ lại, Tú vẹt....
Hoạt động 3: Tìm hiểu cách giải quyết vấn đề trong thực tế học tập.
Hoạt động dạy và học
Ghi bảng
- GV nêu vấn đề: Hiện nay trong HS chúng ta còn có hiện tượng học vẹt, lười suy nghĩ trong học tập nên kết quả chưa cao. Theo em ta nên làm như thế nào để khắc phục hiện tượng đó?
- Chia lớp thành nhiều nhóm thảo luận theo nội dung:
+ Xem xét hiện tượng trong học sinh nói chung và HS ở trong lớp nói riêng có hiện tượng đó không? Mức độ thế nào? Tác hại ra sao?..
+ Tìm hiểu nguyên nhân hiện tượng.
+ Tìm biện pháp giải quyết.
+? Vậy chúng ta cần rèn luyện tính năng động, sáng tạo như thế nào?
4- Rèn luyện:
- Rèn luyện tính siêng năng, cần cù, chăm chỉ.
- Biết vượt qua khó khăn, thử thách.
- Tìm ra cái tốt nhất, khoa học để đạt được mục đích.
Hoạt động 4: Xây dựng kế hoạch rèn luyện tính năng động, sáng tạo.
Hoạt động dạy và học
Ghi bảng
- Yêu cầu mỗi em xây dựng một kế hoạch.
Gợi ý :
+ Xác định mục đích: thiếu năng động ở điểm nào.
+ Nêu cách làm thực hiện mục tiêu.
+ Các bước thực hiện :
+ Các điều kiện thực hiện.
- GV yêu cầu HS thực hiện đúng kế hoạch dã xây dựng.
+ Lập kế hoạch:
Ví dụ: để cải tiến phương pháp học tập, khi học cần:
- Tập trung chú ý.
- Luôn luôn suy nghĩ và tự đặt ra câu hỏi “Như thế nào”, “Vì sao”.
- Nêu thắc mắc với thầy cô, bạn bè.
- Không chỉ làm đúng theo thầy mà còn tìm nhiều cách giải cho mỗi bài tập.
4. Luyện tập, củng cố:
a.Năng động, sáng tạo là một đức tính tốt đẹp, trong thời đại ngày nay rất cần con người năng động sáng tạo như lời Bác Hồ dạy: Phải độc lập suy nghĩ, đối với bất kì vấn đề gì cũng phải đặt câu hỏi vì sao, đều phải suy nghĩ kĩ càng?
b.Trò chơi”hái hoa dân chủ”:Chủ đề sự năng động sáng tạo trong nhà trường
 -GV:gieo vấn đề và cho HS chơi trò chơi
 -HS:tự làm theo kế hoạch
 c.Sắm vai: Chủ đề về năng động sáng tạo trong nhà trường
 -HS:+Phân vai,tổ chức vai diễn
 +Nhận xét,bổ sung
 -GV: nhận xét,kết luận
5. Hướng dẫn học tập ở nhà:
 - Yêu cầu HS học thuộc nội dung bài học.
- Về nhà làm bài tập còn lại.
- Chuẩn bị bài mới – Bài 9 “Làm việc có năng suất, chất lượng, hiệu quả
C- Kết thúc vấn đề:
Môn GDCD có một ví trí, vai trò quan trọng trong giáo dục nhân cách, đặc biệt trong việc xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân cho học sinh .Việc giảng dạy môn Giáo dục công dân luôn gắn với thực tiễn cuộc sống học sinh ở THCS là nhiệm đặc biệt quan trọng. Nhưng trong thực tế dạy học hiện nay, chúng ta thấy môn học này có vai trò thứ yếu và mờ nhạt trong nhà trường. Đó là điều đáng để cho những nhà giáo dục, trong đó có chúng ta -những giáo viên giảng dạy môn GDCD phải suy nghĩ. Vì vậy, trong quá trình giảng dạy tôi luôn tích cực cải tiến phương pháp dạy - học bộ môn. Được sự ủng hộ,giúp đỡ và góp ý kiến của các đồng nghiệp, bước đầu tôi đã thu được những kết quả đáng khích lệ. Trên thực tế, tôi thấy môn GDCD không chỉ gắn liền với việc hình thành và hoàn thiện nhân cách của học sinh mà nó còn có tác dụng tạo ra tiền đề để học sinh học tập tốt các môn văn hoá khác, khi trong mỗi các em đã hình thành được những phẩm chất, kỹ năng cá nhân phù hợp với các chuẩn mực đạo đức và pháp luật.
Do trình độ và điều kiện của đơn vị còn hạn chế, tôi mới chỉ nêu lên được những kinh nghiệm bước đầu về việc cải tiến, đổi mới phương pháp dạy-học môn GDCD, nhằm gắn việc học tập tri thức trên lớp luôn gắn với thực tiễn cuộc sống của học sinh.
Tôi mong có được sự góp ý, phê bình của các đồng nghiệp nhằm giúp tôi có thêm những điều bổ ích trong việc dạy-học môn này.
Đồng thời để nâng cao hiệu quả việc dạy- học môn GDCD góp phần giáo dục nhân cách, hoàn thiện tư cách và trách nhiệm người công dân mới, tôi có một số đề xuất và kiến nghị sau: 
- Tuyên truyền làm thay đổi nhận thức của những nhà giáo dục, giáo viên, phụ huynh học sinh và học sinh về vị trí , vai trò của bộ môn GDCD
- Tổ chức các đợt hội thảo trao đổi kinh nghiêm về phương pháp dạy-học bộ môn ở cấp trường, cấp khu
- Có những hình thức, biện pháp khuyến khích giáo viên tích cực đổi mới phương pháp giảng dạy bộ môn (thao giảng, hội giảng cấp trường, cấp huyện)
- Sớm đưa môn GDCD vào nội dung thi tốt nghiệp ở các trường phổ thông
- Tổ chức bồi dưỡng thường xuyên về chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ giáo viên giảng dạy bộ môn này.
* Kiến nghị:
Chúng ta cần tăng cường cơ sở vật chất cho môn học, cụ thể là: 
- Các nhà trường cần xây dựng tủ sách pháp luật, bao gồm: 
+ Những sách lý luận về đạo đức, về nhà nước và pháp luật
+ Hiến pháp và các sách có nội dung về Hiến pháp
+ Các bộ luật và luật, các nghị định (của chính phủ)
+ Một số tạp chí và báo:báo Pháp luật,...
+ Sách nghiệp vụ giảng dạy đạo đức và pháp luật.
-Bổ sung thêm các trang thiết bị dạy học : 
 + Tranh ảnh, hiện vật, các mô hình, ...
 +Các sơ đồ, biểu đồ,...
 Xin chân thành cảm ơn !

Tài liệu đính kèm:

  • docChuyen de GDCD hay.doc