Truyền thuyết về Thánh Gióng được kể hằng năm ở Hội Dô, Hội Gióng. Tên chữ của làng Gióng là Phù Đổng, nay là huyện Tiên Du, Bắc Ninh, theo sắc vua ban thì đây là nơi sinh của Gióng. Thời đản sinh và dưới triều vua Hùng thứ Sáu, nhà Hồng Bàng, tức là vào đầu khoảng thời huyền thoại dân tộc. Cả một vùng châu-thổ từ Bắc-Ninh, Vĩnh-Phú, Vũ-Ninh, đến núi Tam-Đảo, Sơn-Tây đều có những tục truyền là những biến thái của huyền thoại.
Đến đời Nhà Lê thì chuyện Thánh Gióng được chính-thức chép, thứ nhất là bởi Ngô Sĩ Liên (tiến sĩ năm Đại-Bảo thứ ba, đời Lê Thái Tông, Hàn-Lâm Viện-sĩ, sử quan Quốc-Sử quán) trong bộ Đại Việt Sử Kí Toàn Thư, sau là bởi Trần Thế Pháp với sự hiệu chính của Vũ Quỳnh (1453-? Tiến Sĩ 1479, Lễ Bộ Thượng-thư) và Kiều Phú (1450-? Tiến Sĩ 1476) trong cuốn Linh Nam Chính Quoái. Tập lịch sử diễn ca Thiên Nam Ngữ-lục (Tác giả khuyết danh cuối thế kỉ XVII) kể lại chuyện Thánh Gióng như một truyền kí, rồi tập Đại Nam Quốc sử Diễn-ca (1870-1873) của Lê Ngũ Cát/Hàm Biên-tu, Án sát Cao Bằng và Phạm Đình Toái (Cử nhân, Án sát Sơn Tây) nói đến Gióng một cách sơ lược.
Huyền Thoại Lửa Và Mặt Trời Việt Nam: Thánh Gióng Truyền thuyết về Thánh Gióng được kể hằng năm ở Hội Dô, Hội Gióng. Tên chữ của làng Gióng là Phù Đổng, nay là huyện Tiên Du, Bắc Ninh, theo sắc vua ban thì đây là nơi sinh của Gióng. Thời đản sinh và dưới triều vua Hùng thứ Sáu, nhà Hồng Bàng, tức là vào đầu khoảng thời huyền thoại dân tộc. Cả một vùng châu-thổ từ Bắc-Ninh, Vĩnh-Phú, Vũ-Ninh, đến núi Tam-Đảo, Sơn-Tây đều có những tục truyền là những biến thái của huyền thoại. Đến đời Nhà Lê thì chuyện Thánh Gióng được chính-thức chép, thứ nhất là bởi Ngô Sĩ Liên (tiến sĩ năm Đại-Bảo thứ ba, đời Lê Thái Tông, Hàn-Lâm Viện-sĩ, sử quan Quốc-Sử quán) trong bộ Đại Việt Sử Kí Toàn Thư, sau là bởi Trần Thế Pháp với sự hiệu chính của Vũ Quỳnh (1453-? Tiến Sĩ 1479, Lễ Bộ Thượng-thư) và Kiều Phú (1450-? Tiến Sĩ 1476) trong cuốn Linh Nam Chính Quoái. Tập lịch sử diễn ca Thiên Nam Ngữ-lục (Tác giả khuyết danh cuối thế kỉ XVII) kể lại chuyện Thánh Gióng như một truyền kí, rồi tập Đại Nam Quốc sử Diễn-ca (1870-1873) của Lê Ngũ Cát/Hàm Biên-tu, Án sát Cao Bằng và Phạm Đình Toái (Cử nhân, Án sát Sơn Tây) nói đến Gióng một cách sơ lược. Hai sách diễn-ca sau đều theo thể lục-bát, tuy cũng đều có ý muốn cho thành văn thơ "tao nhã", "lịch sự", nhưng nhiều đoạn chưa đạt được và vẫn còn giọng bình dân giản dị, lại còn muốn giảng đạo đức theo kiểu Tống-Nho. Tôi sao chép và trích lục hai sách ấy để các độc giả thấy rõ rằng các vị văn thân đời trước không những không hiểu nổi sự hùng-tráng ngang-tàng huyền-diệu của người anh-hùng huyền-thoại, lại còn muốn rồn ép người anh-hùng khai sơn phá thạch, tạo dựng văn-hóa trong thời bình-minh của dân tộc vào trong cái khuôn gỗ vuông-vắn thô-sơ của một đạo Khổng-Mạnh đã bị gọt rũa để thành một công cụ chính-quyền. Bài của Lê Ngô Cát- Phạm Đình Toái gồm có đúng 18 câu lục bát: Sáu đời Hùng vận vừa suy Vũ-ninh có giặc mới đi cầu tài. Làng Phù-đổng có một người Sinh ra chẳng nói, chẳng cườ i trơ-trơ. Những ngờ oan trái bao giờ, Nào hay thần tướng đợi chờ phong vân. Nghe vua cầu tướng ra quân, Thoắt ngồi, thoắt nói muôn phần khích-ngang. Lời thưa mẹ, dạ cần vương, Lấy trung làm hiếu một đường phân minh. Sứ về tâu trước thiên đình, Gươm vàng, ngựa sắt đề binh tiến vào. Trận mây theo ngọn cờ đào, Ra uy sấm sét, nửa chiều giặc tan. Áo nhung cởi lại Linh-san, Thoắt đà thoát nợ trần-hoàn lên tiên. Miếu-đình còn dấu cố-viên. Chẳng hay chuyện cũ lưu truyền có không? (Đại-Nam Quốc-sữ diễn ca) Bản Hoàng Xuân Hãn, 1949 Thiên Nam Ngữ Lục kể dài hơn, và cũng như truyền thuyết ở một vài nơi, đã biến Gióng thành một anh-hùng huyền-thoại (heros), lẫn lộn với một số nét còn lưu lại của huyền-thoại nguyên thủy. Lĩnh Nam Chích Quái của Trần T h ế Pháp (Vũ Quỳnh, Kiều Phú) cũng ở trong tình trạng ấy. Tôi nhận xét rằng các thoại kể được ghi lại những năm 1968 và 1972 đều ít nhiều có pha những chi tiết hay tỉ-dụ có tính cách duy-vật thô-sơ không mác-xít, như Maxim Gorki giảng thần thoại cổ helen. Về phương diện này, các học-giả mác-xít cũng phạm lỗi-lầm của các học-giả nho gia: cả hai thuyết đều cố phá huyền và tẩy uế các huyền-thoại để thu nhận huyền-thoại vào vòng ý-hệ chính thống. Ngoài ra, các huyền thoại Việt-Nam cũng như các huyền thoại của thần-đạo Nhật-Bản, đều còn bị sửa đổi theo những tin-tưởng dính đến Phật-giáo Trung-Hoa. Vì hầu hết các người Việt-Nam cũng còn nhớ những nét chính của huyền thoại Thánh Gióng, nên tôi kể lại một thoại-thuyết tổng-hợp chỉ có những sự kiện cốt lõi, pha lẫn những nghi-thức liên hệ còn tồn tại ở đ ịa phương, nhưng để bớt khô-khan, tôi mượn một vài câu văn vần trích lời hát xẩm trong Hội Gióng (Tháng Ba) và vài đoạn của Thiên Nam Ngữ Lục. Những phần trích lục đều in chữ ngả và ghi rõ xuất xứ. Khi Lạc Long Quân (Lang Đa Cần, theo truyền thuyết Mường) làm xong công-việc lập ra non nước và đánh đuổi các loài quỉ dữ quấy nhiều phá phách, ăn thịt người trên đất liền và dọc bờ biển thì Ngài mất đi ("bay về trời" theo cách nói của hán văn). Trước khi đi, Ngài có dặn rằng nếu có sự nguy-nan đe dọa con cháu dòng-dõi thì có thể kêu gọi và Ngài sẽ về cứu nguy. Từ đó ở đất Lạc, dưới sự lãnh đạo của vua (bua/bố/, tên truyền từ đời Lang-Quân) một nền văn-hiến mới được xây dựng, dân chúng sống an lạc với công việc cấy cầy. Người người giữ pháp, nhà nhà ở yên (TNNL) Bỗng nhiê n và o khoảng đời Hùng thứ Sáu, khắp một vùng bao gồm Kẻ Trâu, Kẻ Cáo, Kẻ Ngựa, Kẻ Sóc, từ Tiên Du, Bắc Ninh đến Tam Đảo, Sơn Tây, giặc cướp nổi lên như rươi như bọ, cướp phá, giết hại dân lành, sự sợ hãi và bất yên lan tràn từ làng này sang làng khác không ngớt không ngơi. Thiên Nam Ngữ Lục kể cuộc loạn này như được tổ chức bởi một bọn giặc tự xưng là nhà Ân, với một tên đầu đảng tự nhận là vua: Ân-vương sai tướng phá thành, Binh dòng muôn đội, tướng tinh một nghìn, Đạp bằng Đất Việt sơn xuyên, Cỏ chẳng cho mọc, đường nên tuyệt người (TNNL) Nhưng thực sự, đây chỉ là những đám giặc cỏ nếu có, vì ngoài nhà Thương-Ân ở Trung Hoa ra, chưa có một nước nào trong cõi Đông Á có thể đã có một quân đội đông đảo, có tổ cức (binh, tướng), có huấn-luyện ( dòng, tinh) như đ ược kể. Cái tên Nhà Ân cũng là các nhà nho đời sau đặt ra, vì nhà Ân thực còn ở tít mù trong cái khúc uốn của Hoàng-Hà, với không biết bao nhiêu bộ lạc không-tên, không-sử, chưa biết cấy lúa, ngăn cách ở khoảng giữa, rồi mới tới lãnh thổ của dân Lạc-Việt. Vua Hùng cũng chưa chắc gì đã có "thành", và huyền thoại cũng không nói gì đến binh-đội của "Nước Lạc" (?) Lĩnh Nam Chích Quái kể rằng dân khổ quá, đêm đêm ngửa mặt lên trới mà kêu rằng: "Bố ơi! Bố ở đâu mà không về cứu các con!" Ở Làng Sóc, có hai vợ chồng ở với nhau đã lâu mà không có con. Nhà nghèo, chỉ trồng rau trồng cà để sống. Một truyền thuyết ở vùng Nòn, nay là làng Phù Dực (Cánh Nổi), kể rằng một bữa, người vợ thấy trên đất sau vuờn rau có một vết lõm giống như dấu chân người mà to lắm. Bà ươm thử chân mình vào vết lõm. Từ đó thấy khác tro ng người, bụng và ngực mỗi ngày một lớn. Mười tháng sau thì sinh ra một đứa bé con trai, nhỏ hơn các trẻ sơ sinh khác nhiều. Tuy vậy, hai vợ chồng vẫn mừng lắm. Người mẹ hàng ngày cho con bú và mớm cơm cho con, nhưng chẳng những nó không chịu ăn và không lớn lên, mà đã ba năm nó cũng vẫn "chẳng nói, chẳng cười, trơ trơ (ĐN.QSDC). T.N.N.L cũng kể như thế: đứa bé sinh ra Chẳng ngồi chẳng nói chẳng ăn hoài nằm" Một bữa kia, đang ngồi chơi bên cạnh giường con trong nhà thì thấy ngoài ngõ có tiếng mõ kêu, rồi tiếng loa gọi tất cả bà con lối xóm nghe lời truyền của Vua, có giặc đang phá đất phá nước, cướp của giết người, đe dọa sự yên ổn của xóm làng, xâm phạm vào miếu thờ các Đấng, các Ngài và cả mồ mã cha mẹ của dân; vậy khắp mọi nhà, không kể đàn ông, đàn bà, ai là người còn khỏe m ạnh cũng phải đóng góp, sửa soạn, mài dao cho sắc, đẽo lao cho nhọn, để ra đánh giặc khi chúng đến gần làng. Hai vợ chồng già nhìn nhau. Người vợ ứa nước mắt nói: "Ông với tôi đều có tuổi cả rồi, sức đã đuối, đi lại còn phải chống gậy, làm sao đánh giặc được bây giờ?" Người chồng thở dài nói: "Phải chi con mình nó lớn hơn một chút, biết đi biết đứng..." Bỗng ở trên giường tre, đứa bé đang nằm đột-nhiên ngồi dậy; từ lúc lọt lòng, chẳng biết khóc biết cười, nay cất tiếng nói: "BỐ mẹ khỏi lo buồn, ra gọi ông mõ vào đây cho con." Ông già bà già giật mình, nửa mừng nửa sợ, cứ thế lập cập chạy ra, quên cả gậy, bỏ cả guốc, rối rít gọi người mõ đang rao ngoài ngõ vào nhà. Người làng đang xúm quanh để hỏi tin tức về thế giặc cũng kéo nhau theo vào. Chỉ thấy đứa bé, nhỉ nh hơn cái nắm tay, đứng trên giường tre, rõng rạc phán: "Này ông Mõ, ông về ngay bảo Vua: Đúc một ngựa sắt ngàn cân Luyện một việt sắt người phần cả cao (T.N.N.L) sớm đưa lên đây, tôi kịp đi đánh giặc." Người mõ trố mắt ra nhìn, chưa động đậy, thì người làng đứng chật trong nhà ngoài ngõ đã nhất tề reo hò vang động, dục: "Đi đi, mau lên, còn đợi gì nữa." Người mõ quay mình ra cửa, ba chân bốn cẳng chạy một mạch về kinh, bỏ quên cả loa, cả mõ. Về tới nơi, xông vào cung, tâu vua tất cả sự kiện xẩy ra chỉ có một câu, và nói thêm: "Ghê quá! Mừng quá! Ngài về!" rồi gục xuống chết. Lính chạy ra khiêng người tử sĩ vào, và Vua không mất thì giờ, ra lệnh: Truyền cho dã tượng các nơi Bễ than lò đắp ngất trời lửa nung Ba trăm cục chính dã công Một tuần luyệ n đúc ngựa cùng việt nay (TNNL) và cho lính đem ngay đến làng Gióng cho Thiên-tướng. Trong khi ấy thì ở làng, dân làng ùn ùn đến nhà Gióng. Chỉ thấy đứa bé đứng thẳng vươn vai một cái, lớn lên ngang đầu mọi người, vươn lên một cái nữa, đầu đụng vào mái nhà nhẩy xuống đất, ra ngoài sân, vươn lên một cái nữa, cao bằng ngọn tre; cất tiếng lớn như tiếng sấm giữa trời, bảo mọi người về đem cơm với cà ở các nhà đến. Cơm thời (hãy) thổi cho đầy bảy nong, Cà thời muối lấy ba gồng... (Bài hát Thánh Gióng, theo Cao Huy Đỉnh Cơm được khiêng, cà được gánh tới, Gióng đứng ăn. Bảy nong cơm, ba (gánh) cà, Uống một hơi nước cạn đà khúc sông (theo Cao Huy Đỉnh) Khi ngựa và gươm (có nơi nói là rìu, có nơi kể là lao hay gậy) của Vua được lính khiêng đến, cùng với nón s ắt, giầy sắt và quần áo sắt, to lớn khác thường, Gióng đón nhận và mặc vào vừa khít như đúc; thét lên một tiếng, nhảy vọt lên mình ngựa, tức thì ngựa sắt chồm lên: Lạ thay ngựa sắt tự nhiên Giậm lên động đất thét lên dậy trời (TNNL) Còn Gióng thì Con mắt sáng như vẻ sao Lưu linh chấp chới tót vào đẩu tinh Ầm ầm dường tiếng lôi minh Hổ bộ long hành nhật giác thiên tư .... Cầm con thiết bổng múa chơi Cán dời Đẩu bính đuôi dời Nam minh Tiếng ran quỉ khốc thần kinh Thu vàng lá rụng xuân xanh hoa tàn (TNNL) Thế rồi người ngựa thẳng phóng vào đám giặc, chân ngựa dẫm xuống đất thành những lỗ chum sâu hoắm đến nay còn thấy, miệng ngựa phun ra lửa, cây cối hai bên đường bị cháy còn để lại vết xém đen. Gióng đứng trên mình ngựa vung gươm phạt ngang phạt dọc , giặc chết như rạ, thấy xác đầy đường. Đến chiều thì gươm sắt gẫy, Gióng vươn tay nhổ tre rừng vung lên, quật xuống, uy thần sáng chói đầy trời: Một mình tả đột hữu xung Muôn quân chẳng sợ ngàn vòng chẳng lo Ngày bằng trường dạ mịt mù Tung hoành ngựa sắt thế như trường xà (TNNL) Quân giặc "nát ra như nước, tan ra như bèo". Đến chiều thì giặc hết, nước yên, suốt một giải đất từ Tiên Du đến Tam Đảo, không còn bóng một tên bất lương phá rối, dân chúng các làng đi theo vết chân ngựa dọn dẹp đường xá đồng ruộng sạch quang, cảnh vật lại yên tĩnh, trong sáng. Gióng cưỡi ngựa lên đến đỉnh núi Con Sóc thì cởi áo treo lên cái ... thoại. Huyền thoại không phải là một vĩ tích đơn-độc, hay một đặc-sự: dó là khác biệt căn-bản giữa huyền thoại (mythos) và truyền-kì (légende). Huyền thoại đánh dấu sự khởi thủy và kể cái nguyên-nhân của một sự trở-đi-trở lại mãi-mãi trong một nhân-gian. Huyền thoại là sự vĩnh-cữ u hay phục-hồi v ĩnh-cữu. Nhưng phải có một nghi-thức để nhắc nhở, để khêu gợi, để dọn đường cho sự trở-về như-xưa, như-thực của huyền-thoại. Đó là cốt-tủy của pháp thuật: người pháp sư niệm chú và bắt quyết để làm phép, hóa phép. Khoa học và kĩ-thuật ngày nay cũng làm phép, hóa phép như thế. Nói chung, khoa-học thay thế huyền thoại và lập ra những câu chú, là những định-luật khoa-học. Kĩ thuật dựa vào khoa-học để bắt quyết và tạo ra những biến-hóa. Trong phòng thí-nghiệm, trong một cơ xưởng hay trên không-trung, cũng thế mà thôi. Trong tương lai ta sẽ xử dụng cái computer( ordinatem, điện toán cơ) như nay ta dùng cái máy đánh chữ, cái máy xay trái cây, và như ở nhà quê, người nông dân dùng cái gầu sòng, cái gầu giai để tát nước. Muốn vào một mạng lưới computer, phải biết cái mã số (là câu thần chú "Vừng vừ ng a! Mở cửa ra" của Ali Baba) và p hải biết dùng cái máy computer cho đúng phép từ số 1 đến số n để khỏi loạn (đó là nghi thức hay nghi lễ). Sự khác biệt từ huyền thoại Thánh Gióng và Hội Gióng đến Internet và cái computer (hay khoa-học và kĩ-thuật, cặp nhau) là ở trong tâm-trí của con người. Người ngày xưa ở thời huyền-thoại không biết rằng có nhữngh định-luật tự-nhiên và tưởng rằng bất cứ một cái gì xẩy ra cũng là do "Trời" làm: "Trời mưa, trời nắng, Trời sinh ra thế". Còn ngườin đời nay, từ Laplace đến Hwkins nói rằng "không cần đến giả thuyết Ông Trời, cũng giảng hết được các sự vật trong vũ-trụ". Các nghi-thức liên hệ với huyền-thoại Thánh Gióng, theo tôi, là những mảnh vỡ của pháp-thuật để cầu Trời, qua Thánh Gióng và vị pháp-sư đầu tiên, để được mưa thuận gió hòa sau những ngày tháng khổ sở bất an của thời giao mùa với giông-tố, gió bão và lũ lụt. Thực tế tất-nhiên phức tạp hơn; tôi chỉ đặt ra một sơ đồ đơn-giản cho dễ hiểu. Sự tưởng-tượng có thể tiểu thuyết hóa những chuyện đưa đến sự thiết-lập huyền-thoại và tạo dựng một dòng thờ tự (culte). Pháp-sư của dòng thờ này đã nhận thấy một sự đều-đặn trong thời-gian chuyền biến từ mùa mưa (thời gió mùa,từ Ấn-độ-dương và Bể Nam thổi ngược lên đến sa-mạc Gobi ở Trung-Bắc Asia qua lãnh thổ Việt-Nam) sang mùa nắng, với sự xuất hiện của mặt trời. Tuyên bố rằng hễ có rạng đằng đông thì hết mưa gió, hết giông bão, là một cách nói thông thường, dễ hiểu. Liên hệ rạng đông với mặt trời mọc và thấy rằng đến chiều thì mặt trời lặn trên đỉnh núi Con Sóc. Thấy rằng mặt trời càng lên cao thì càng sáng, càng ấm và càng hết những đ e-dọa của cái th ời vừa qua, không có mặt trời, ngày cũng như đêm, mây đen u-ám, gió rít không ngơi, cơn giông trận bão lúc nào cũng chực ập xuống. Cuối cùng nhận định rằng tuy mặt trời đã bay ra đằng sau núi và biến mất, đêm tối lan dần, nhưng ngày hôm sau và sau nữa, trời quang mây tạnh, không còn những ghê rợn của những ngày không có rạng đông. Ta đừng quên rằng lúc này còn là tiền-sử, có lẽ là vào lúc đời sống chuyền từ sự nhặt-vặt săn-bắt sang sự trồng-trọt. Nói là "lúc", tưởng là ngắn, nhưng cũng phải là vài trăm năm hay trên dưới nghìn năm. Người ta chưa có lịch. Nhưng một ngày nào đó, người ta thấy rằng cứ khi nào mùa mưa sang mùa nắng thì cà có trái. Các cây cà dai mọc ở ngoài bãi, trẻ con đã biết hái ăn sống; về sau người ta mới biết trồng cà, muối cà, ăn cà với cơm khi đã có cơm ăn. Đến khi có vườ n cà rồi, người ta mới biết đư ợc cái đẹp của hoa cà, do đó có từ-ngữ hoa cà hoa cải; cải thì được chuộng hơn cà, nhưng cả cà và cải đều là thức ăn hàng ngày của người nhà nông; phơi nắng rồi muối, để lâu được mà không ủng, không thối. Vì sự quan trọng của cà trong đời sống, sự cà lên trái đã được móc vào lúc chuyển trời từ mùa mưa sang mùa nắng, tức là vào lúc xuất hiện của Thánh Gióng Mặt Trời. Nghi-thức trồng cà với que bông, phép lễ cơm với cà muối, và chuyện Gióng ăn một lúc hết Bảy nong cơm, ba gánh cà Uống một hơi nước cạn đà khúc sông đều là do điển tích ấy. Ba gánh cà có lẽ là số lượng cà thu hoạch được trong một ngày hái cà trên sào ruộng thờ. Ruộng này là ruộng công của làng Gióng. Nghi-thức gắn liền với huyền thoại ở gốc nguồn một cách mật thiết như thế. Về sau, nghi-thức là một phần của pháp -thuật hay thuật phù-thủy: nghi thức được tin là có tác dụng xúc tác(catalyser)hay dị hóa (làm cho dễ) faciliter sự thực hiện của một việc hay một hiện-tượng mà người ta cầu đảo, ở đây là sự tái sinh của Mặt Trời để chấm dứt mùa mưa bão. Tôi dùng hai động-từ khoa-học hiện-đại để nói về một phép cầu đảo thái-cổ đó là một dụng-ý cố-tình, để trình bày một ý-kiến riêng có phần mới-mẻ. Tôi không đồng ý gọi những nghi-thức này như nhiều nhà dân tộc-học, là "lễ ngày mùa", "lễ nông nghiệp",v.v... Và có một phần nào tôi nghĩ rằng trước sau, ta vẫn còn là phù-thủy. Còn vấn đề lửa. Trong huyền thoại, lửa phát ra từ mồm ngựa khi Gióng phóng ngựa vào đám quân giặc, tức là vào đêm tối lạnh lẽo. Lúc Gióng còn là đứa bé nằm ngửa trên giường, "ba năm chẳng nói chẳng cười trơ trơ" là lúc rạ ng đông, có ánh sáng ch iếu lên mà không có hơi ấm. Chỉ khi đã vươn mình lớn lên, rồi nhảy lên mình ngựa để đi trên bầu trời thì mới có lửa, do ngựa phun ra. Ngựa là ngựa sắt, có người giảng là ngựa ô, mình đen: vẫn là cái lầm cứ muốn bình thường, vật chất hóa huyền thoại. Không có gì làm cho linh-thiêng thành uế tạp hơn là giảng hay sửa huyền-thoại cho thành những chuyện phàm-tục ở cỡ cậu ấm cô chiêu. Ngựa sắt là ngựa sắt, không phải ngựa thường, chỉ có thế thôi. Nó không phải là con ngựa nhong-nhong của mẹ thằng Cuội, cũng không phải là cái xe đạp (xe máy) mà ta cỡi đến sở. Huyền thoại gọi nó là con ngựa sắt, và nó là con ngựa của Mặt Trời Thánh Gióng mà vua Hùng thứ Sáu đã truyền bễ than lò đắp ngất trời lửa nung Ba trăm cục chính dã công%85đúc ra. Đời nay, ta gọi nó là hấp lực Newton, vô hình, bất diệt, làm cho tất cả các t hiên thể xoay vần trong vũ-trụ và bẻ cong ánh sáng đi trong hấp-trường của nó. Lửa của ngựa phun ra làm cháy cây, xém tường và đốt giặc. Lửa của Mặt Trời nhiệt-đới nóng lắm và có thể làm cho lá khô trong rừng bốc cháy. Không phải như Thái Dương Thần Nữ ở Nhật Bản, hiền lành, e lệ, lẫn trốn vào hang sâu và đóng cửa gài then. Mặt Trời Thánh Gióng cho ngựa tung vó, miệng khạc lửa, đốt hết trên đường, như gươm phạt, như gậy đập, hùng dũng, siêu phàm. Nhưng lửa ấy đã thành lửa trần, vì Thánh Gióng đã xuống trần, vì lửa có để lại vết tích thấy được trong cảnh-vật của cõi người ta. Đó là ngọn lửa trong bếp của mỗi nhà, đốt lên khi mùa mưa đã hết và sự thắp lửa không còn quá khó khăn nữa. Ở Việt Nam xưa không có tục thờ lửa như ở India, Trung Quốc hay N hật Bản. Những phần sau của huyền thoại rất dễ hiểu và rõ như bàn tay, một khi ta đã hiểu Thánh Gióng là hiện thân của Mặt Trời. Bắt đầu là Rạng Đông trong chu trình ngắn; là cuối mùa mưa sang đầu mùa nắng vào lúc cà lên trái trong chu trình dài, Mặt Trời là thần-nhân anh-hùng đã mỗi năm, mỗi ngày trở lại cõi người ta, quét sạch đêm tối cùng với giặc cướp tà ma của vô-định, vô-minh; xua duổi gió mưa giông bão đem trở lại ngọn lửa trời làm nắng ráo và cho mỗi nhà một đốm lửa bình-an trong bếp, lại còn đền lại cho dân được một mùa cà có lời. Tôi nghĩ rằng đấy là ý-nghĩa nguyên-thủy và thâm-sâu của huyền thoại Thánh Gióng, mà lẽ ra ta phải gọi là huyền thoại Mặt Trời Gióng. Chữ /Thánh/. dùng ở đây tôi không ưa lắm./Thánh/ là chữ dùng trong Đạo Nho của Khổng-Tử, và rõ ràng rằng là đã được các nhà nho của ta p hong cho Gióng trướ c khi vua ban cho bốn chữ Phù Đổng Thiên Vương. Gọi là /Thần? (*Thần Mặt Trời) theo hán-văn cũng không ổn, mặc dầu xưa ta cũng nói Thần Lửa, Thần Núi, Thần Sông, Thần Cây Đa, Thần Hoàng Làng. Nhiều khi tôi nói và viết trống không là Gióng, cũng như đã bỏ, nếu không cần, những cách gọi là hủ-lậu phong-kiến ÔngMặt Trời, ÔngTrăng, Ông Thổ-công v.v... Mặt Trời vẫn tự-nhiên trở về hằng ngày và vẫn xuất hiện khi tắt gió mùa; lửa mặt trời thì nay ta cũng đã biết nhóm lên một cách dễ-dàng bằng que diêm hay cái bật lửa. Ngay từ lúc ban đầu, khi huyền-thoại được đặt ra, tính cách "phù thủy" cũng đã lộ, như ta thấy bởi sự nhân-hình-hóa mặt trời và bởi những nghi-thức đi kèm. Do những chứng tích ấy ta có thể kết luận rằng không có sự thờ lửa như đã nói ở trên và không có cả sự thờ Mặt Trời như ở Cổ-Egypt (Ai Cập) hay vài thổ dân ở A merica (Mĩ Châu, trước Columbut, Kha Luân Bố). Huyền-thoại Gióng Mặt Trời, theo sự suy-luận riêng, có lẽ xuất hiện vào lúc sự nhặt-vặt chuyển sang sự trồng-trọt. Lí trí nhận xét, liên hợp, suy tư bắt đầu le lói và báo hiệu rằng, nếu những điều kiện địa-kí và lịch sử cho phép, thì khoa-học sẽ chớm nở. Thuật phù phép mở đường cho ý muốn chỉ huy Tự-nhiên bằng cách bắt chước Tự-nhiên, theo nguyên tắc "phục tòng để làm chủ" mà kĩ thuật khoa-học sẽ lấy làm của mình sau khi đã dần dần loại được sự sợ hãi, sự cam chịu, sự thần phục ra ngoài đời sống tâm thần, vật chất và xã hội. Vì những lí do ấy, tôi chọn huyền-thoại Gióng Mặt Trời để dẫn nhập vào sách. Mặt Trời nay không chỉ là cái khối khí hidrogen-helium ở giữa thái-dương-hệ, mà sức hấp thụ l àm cho trái đất củ a ta vừa xoay vừa qu ay quanh thành đêm ngày và bốn mùa, mà sức nóng tỏa ra không những là nắng sáng và ấm, mà cả cái năng-lượng làm cho có sự sống trên mặt đất với những chất vô-cơ và hữu-cơ để giúp cho ta đỡ khó nhọc khổ sở về vật chất. Mặt Trời nay sẽ là cái khối tư-tưởng-khoa-học-kĩ thuật của ta, giữa loài người và chỉ loài người mà thôi; lúc rạng đông, nó èo ọt, sài đẹn, không nói không cười, tưởng là chết yểu hay chỉ sống được với tật nguyền, nhưng đáp ứng các đòi-hỏi, các đe-dọa, các khó-khăn, các nguy-cơ, nó cầm cự và phấn đấu; nó đã vươn lên ba cái và lớn lên đến ngọn tre; cao hơn, mạnh hơn, làng xóm vui mừng hi vọng. Nhưng phải nuôi nó bằng những gì nó cần. Và phải hiểu rằng không phải chỉ có sung sướng, mà cũng có đau khổ. Được ánh sáng, được ấm áp, đư ợc no đủ, được bình yên, nhưng cũng có cháy rụi, đổ vỡ, có tàn-phá, có thương-đau. Chúng ta cũng có thể gọi Mặt Trời mới này là Gióng. Mặt Trời Gióng nay là Mặt Trời Khoa-Học, Kĩ-Thuật và Tư-Tưởng. Nó đến sau và đi theo Mặt Trời Gióng thời Hùng-Vương thứ Sáu. Cũng như Mặt Trời Gióng trước, Mặt Trời Gióng này cũng sẽ đem lại một đời sống mới trong ánh sáng, trong ấm áp, trong no đủ và bình yên ở một độ cao hơn. Nhưng cẩn thận! Nó chói hơn, nó nóng hơn. Và nó có sức tàn phá dữ hơn gấp bội, vì nó ở ngay trên trái đất. TRẦN NGỌC NINH
Tài liệu đính kèm: