A- LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1. Thực trạng:
a) Đối với giáo viên:
- Hiện nay, một số giáo viên bộ môn Ngữ văn bậc THCS còn rất lúng túng khi khai thác tranh ảnh trong bài học.
- Do tranh ảnh còn ít, khai thác chưa sâu.
- Việc sưu tầm tranh ảnh của giáo viên chưa có hướng dẫn cụ thể về việc khai thác.
- Trong khi đó, chương trình đổi mới trong bộ môn Ngữ văn đòi hỏi phải có sự đổi mới dạy học bằng cách khai thác nội dung bài học trên tranh ảnh để làm cho học sinh dễ hiểu, hứng thú học tập, nhớ lâu,
b) Đối với học sinh:
- Không biết sưu tầm tranh ảnh ở đâu.
- Nhìn vào tranh ảnh không biết khai thác như thế nào hoặc khai thác chưa sâu.
2. Mục đích:
- Giúp GVBM có kĩ năng khai thác tranh ảnh.
- Phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh trong học tập bộ môn và làm theo quan điểm đổi mới dạy học.
- Rèn luyện cho ọc sinh những kĩ năng và kĩ thuật làm việc với tranh ảnh. Giúp học sinh nhận thức được tranh ảnh là nguồn kiến thức để học tập chứ không phải là để xem cho đẹp, cho vui.
LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI 1. Thực trạng: a) Đối với giáo viên: - Hiện nay, một số giáo viên bộ môn Ngữ văn bậc THCS còn rất lúng túng khi khai thác tranh ảnh trong bài học. - Do tranh ảnh còn ít, khai thác chưa sâu. - Việc sưu tầm tranh ảnh của giáo viên chưa có hướng dẫn cụ thể về việc khai thác. - Trong khi đó, chương trình đổi mới trong bộ môn Ngữ văn đòi hỏi phải có sự đổi mới dạy học bằng cách khai thác nội dung bài học trên tranh ảnh để làm cho học sinh dễ hiểu, hứng thú học tập, nhớ lâu, b) Đối với học sinh: - Không biết sưu tầm tranh ảnh ở đâu. - Nhìn vào tranh ảnh không biết khai thác như thế nào hoặc khai thác chưa sâu. 2. Mục đích: - Giúp GVBM có kĩ năng khai thác tranh ảnh. - Phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh trong học tập bộ môn và làm theo quan điểm đổi mới dạy học. - Rèn luyện cho ọc sinh những kĩ năng và kĩ thuật làm việc với tranh ảnh. Giúp học sinh nhận thức được tranh ảnh là nguồn kiến thức để học tập chứ không phải là để xem cho đẹp, cho vui. B- TÌNH HÌNH CHUNG 1. Thuận lợi Đội ngũ giáo viên tổ văn tương đối đông. Đa số giáo viên có nhiều kinh nghiệm trong công tác giảng dạy, giáo viên trong tổ rất đoàn kết, nhiệt tình hỗ trợ lẫn nhau. Qua học tập và quá trình giảng dạy bản thân tôi đã có được vốn kiến thức và kinh nghiệm giảng dạy, đồng thời thường xuyên thăm lớp dự giờ những giáo viên có kinh nghiệm hơn tôi đã thấy được hiệu quả lớn của việc sử dụng tranh minh họa trong bộ môn Ngữ văn. Phương pháp dạy học mới là phương pháp tích cực, tiến bộ giúp giáo viên có tâm huyết và đầu tư hơn vào tiết dạy của mình cũng như có thêm cơ hội để phát huy khả năng sáng tạo của bản thân. Học sinh cũng có hứng thú học hơn so với phương pháp dạy học theo lối thuyết trình cũ. 2. Khó khăn - Đồ dùng dạy học chương trình lớp 6 còn quá ít (chỉ có một số bức tranh phục vụ bài dạy) - Chất lượng đầu vào của học sinh lớp 6 thực tế còn yếu. Nhiều em viết chữ xấu, chưa biết cách diễn đạt ý, học hành chểnh mảng làm ảnh hưởng đến chất lượng chung. - Học sinh lớp 6 còn bỡ ngỡ về chương trình học, phương pháp học bộ môn. - Kiến thức của đa số học sinh về mọi lĩnh vực còn hạn chế các em còn học lệch chú ý nhiều hơn đến các môn thuộc lĩnh vực tự nhiên, chưa thật coi trọng môn Ngữ văn, đây là một trong những khó khăn lớn cho giáo viên trong quá trình giảng dạy. - Phương pháp mới là phương pháp dạy học tích cực nhưng lưu lượng thời gian dành cho mỗi bài lại quá hạn hẹp vì thế đôi khi giáo viên phải dạy lướt qua và học sinh phải nhồi nhét kiến thức mà không có sự thấm nhuần đây cũng là một khó khăn đáng kể. C- BIỆN PHÁP TIẾN HÀNH 1. Đối với giáo viên: Giáo viên phải nghiên cứu những tài liệu có liên quan đến nội dung bài học để việc soạn bài chu đáo hơn. Giáo viên cần có kiến thức sâu rộng, đưa ra hệ thống câu hỏi rõ ràng, lô gíc. Thường xuyên chuẩn bị đồ dùng dạy học và áp dụng một cách có hiệu quả nhằm nâng cao chất lượng cho tiết dạy ngữ văn. Cần nắm chắc tiến trình lên lớp của việc dạy và học Ngữ văn, sử dụng đa dạng, linh hoạt các bước, các phương pháp dạy học trong quá trình giảng dạy. Đặc biệt giáo viên cần hiểu rõ mục đích yêu cầu, thao tác, tác dụng của từng phương pháp. Cần chú ý rèn luyện cho học sinh những kĩ năng, kĩ thuật làm việc với tranh ảnh: Kĩ năng quan sát, nhận xét. Kĩ năng mô tả, tường thuật. Kĩ năng phân tích, nhận định, đánh giá. 2. Đối với học sinh: Học sinh là trung tâm, là chủ thể, là mục đích của quá trình dạy học. Học sinh phải chiếm lĩnh tri thức một cách chủ động vì thế để đạt được kết quả trong học tập, học sinh cần thực hiện tốt các theo tác trí tuệ (sự chú ý, sự ghi nhớ, sự thông hiểu, sự suy nghĩ, tưởng tượng và sáng tạo) Học sinh phải có ý thức tự giác, hăng say trong học tập. 3. Một vài vấn đề về việc dùng tranh minh họa cho tiết dạy Ngữ văn. a) Tác dụng của việc dùng tranh minh hoạ cho tiết dạy ngữ văn 6. Tại sao lại nên dùng tranh minh hoạ cho tiết dạy Ngữ văn? Để trả lời được câu hỏi này trước hết cần phải hiểu khái niệm “minh hoạ”. Minh hoạ là làm rõ thêm, sinh động thêm nội dung của tác phẩm văn học hoặc văn bản trình bày, bằng hình vẽ hoặc bằng những hình thức dễ thấy, dễ hiểu và dễ cảm nhận. Bắt nguồn từ khái niệm này mà chúng ta dễ nhận thấy được tác dụng rất lớn của việc dùng tranh minh hoạ cho tiết dạy Ngữ văn cụ thể là những tác dụng sau: - Làm cho tiết học sinh động, hấp dẫn hơn, tạo hứng thú cho học sinh trong học tập. - Theo tranh, góp phần khắc sâu kiến thức cho học sinh trong học tập. - Từ tranh, rèn luyện kĩ năng kể chuyện. - Giúp giáo viên dẫn dắt học sinh đến với khái niệm dễ dàng hơn.- Tạo cho học sinh cảm giác yêu văn học và nghệ thuật b) Những tranh cần có: Thực tế tranh minh hoạ được trang bị cho chương trình Ngữ văn THCS nói chung và chương trình Ngữ văn 6 nói riêng chưa phong phú, thậm chí là chưa đáp ứng được mong muốn của người dạy, người học . Vài năm gần đây, tổ Xã hội chúng tôi đã sưu tầm tranh bổ sung thêm vào kho ĐDDH môn văn của tổ. Nhưng giáo viên mới chỉ sử dụng để dạy cho một số văn bản trong chương trình, chủ yếu phục vụ cho phần văn bản của văn học dân gian (truyện truyền thuyết, truyện cười, truyện ngụ ngôn, truyện cổ tích) còn phần văn học hiện đại những bức tranh còn gắn vào SGK; đây cũng là những khó khăn đáng kể đối với giáo viên, vả lại ngoài việc dùng tranh minh họa cho tiết dạy văn bản thì việc dạy Ngữ pháp và Tập làm văn cũng có thể dùng tranh minh hoạ. Tuy nhiên, không phải bài nào, sự vật, hiện tượng nào cũng sử dụng tranh để minh họa mà phải xét thấy mục tiêu chính cần đạt của bài học liên quan đến tranh bức minh họa nào chúng ta sẽ sang tạo, không ngừng sáng tạo để có được tranh sử dụng. Do vậy chưa phát huy được hết mặt mạnh của nó trong dạy học Ngữ văn. Như thế để giải quyết phần nào vấn đề naỳ đòi hỏi người dạy phải có kỹ năng sáng tạo, sáng tạo “ý tưởng hình ảnh” để đưa vào minh hoạ phục vụ cho tiết học, nhằm khắc sâu kiến thức tạo hứng thú cho học sinh. Theo tôi cần rất nhiều tranh để phục vụ cho nhiều bài nhưng tôi xin đưa ra vài bức tranh cần có dưới đây để làm ví dụ : - Dạy văn bản “Em bé thông minh” cần có 04 bức tranh về 04 lần thử tài: + Bức tranh 1: Em bé giải câu đố của viên quan. + Bức tranh 2: Em bé giải câu đố lần thứ nhất của vua. + Bức tranh 3: Em bé giải câu đố lần thứ hai của vua. + Bức tranh 4: Em bé giải câu đố của sứ giả nước láng giềng. - Dạy bài “Tìm hiểu chung về văn miêu tả” có thể dùng 04 bức tranh: + Bức tranh 1 +2 : Quang cảnh về hai vườn nhà. + Bức tranh 3: Quang cảnh một cửa hang quần áo. + Bức tranh 4 : Hình ảnh của một lực sĩ. - Dạy bài “Từ mượn” có thể dùng tranh để phục vụ cho phần II “Nguyên tắc mượn từ” + Bức tranh 1: Xe lửa + Bức tranh 2: Máy bay - Dạy văn bản “ Bài học đường đời đầu tiên” trong sách đã có tranh với nội dung “Dế Mèn đang trịch thượng với Dế Choắt”, vậy cũng sẽ cần có thêm tranh với nội dung “ Dế Mèn đang đứng trước mộ Dế Choắt với sự ân hận -> để làm nổi bật nội dung của văn bản. c) Làm thế nào để có tranh sử dụng: Tranh sử dụng có hai dạng: tranh động và tranh tĩnh. Tranh động tức là những đoạn phim thì giáo viên có thể tự tìm và sưu tầm còn nếu dùng tranh tĩnh thì thực tế các trường học đã đưa vào môn Hoạ, nhiều học sinh vẽ rất đẹp rất nghệ thuật nhưng chấm điểm xong thì tác phẩm nghệ thuật của các em lại trở nên vô nghĩa. Vậy tại sao lại không tận dụng những thành quả của học sinh? Nhưng để tận dụng được cần có sự phối hợp nhịp nhàng giữa giáo viên dạy Hoạ và giáo viên Ngữ văn trong một số bài vẽ về “đề tài tự chọn”. Giáo viên dạy Hoạ có thể định hướng cho học sinh một số bức tranh mà bên môn Ngữ văn cần thiết, làm như thế sẽ giảm được phần kinh phí cho việc dùng tranh minh họa phục vụ tiết dạy. d) Cách thức sử dụng: Sử dụng tranh minh họa không nên tuỳ tiện mà cũng có những nguyên tắc nhất định: - Tranh được sử dụng không nên cho học sinh xem trước nhằm tạo bất ngờ hứng thú khi học. - Sử dụng tranh có hiệu quả và hợp lý giữa các khâu, các phần. Khi đưa tranh vào sử dụng phải đặt câu hỏi để đưa học sinh vào tình huống có vấn đề nhằm phát huy tác dụng của việc dùng tranh minh họa. Ví dụ: Dạy “Bài học đường đời đầu tiên” (Tô Hoài) sẽ sử dụng bức tranh SGK và đặt câu hỏi (cho mục 2) ? Bức tranh này minh hoạ cho sự việc gì trong văn bản. (Dế Mèn coi thường Dế Choắt) ? Em hãy tìm những chi tiết miêu tả hình ảnh, tính nết của Dế Choắt. (như gã nghiện thuốc phiện, cánh ngắn ngủn, râu một mẩu, mặt mũi ngẩn ngẩn ngơ ngơ) -> Đồng thời với việc trả lời của học sinh, giáo viên sẽ chỉ vào tranh và nói về các chi tiết đó. ?Dế Mèn xưng hô với Dế Choắt có gì đặc biệt? (chú mày). ?Như thế dưới mắt Dế Mèn, Dế Choắt hiện lên như thế nào? (yếu ớt, xấu xí, lười nhác, đáng khinh). Thái độ đó đã tô đậm thêm tính cách gì của dế Mèn? (kiêu căng, tự phụ). Giáo viên chỉ lên tranh đồng thời thuyết minh: Dế Mèn thanh niên hùng dũng đẹp đẽ là vậy nhưng lại tự phụ, kiêu căng Ngoài tranh này ra với văn bản này còn có thể sử dụng tranh với cảnh:Dế Mèn đứng trước mộ Dế Choắt Tranh này thực tế chưa có giáo viên phải sáng tạo. Có thể tiến hành bằng cách giáo viên treo bức tranh sau đó đặt câu hỏi: Thái độ Mèn đã thay đổi như thế nào khi dế Choắt chết? (hối hận, xót thương, quỳ xuống nâng dế Choắt lên mà than, đắp mộ to cho dế Choắt, đứng lặng hồi lâu nghĩ về bài học đường đời đầu tiên). Học sinh trả lời, giáo viên vừa giảng chi tiết nào liên quan đến hình ảnh sẽ đồng thời giới thiệu rồi tiếp tục hỏi học sinh: Vậy thái độ ấy giúp em hiểu gì thêm về dế Mèn? Theo em sự hối lỗi đó của Mèn có cần thiết không?. Cuối truyện là hình ảnh của dế Mèn đứng hồi lâu trước mộ bạn, em thử hình dung tâm trạng của Mèn lúc này? Học sinh dựa hoàn toàn vào tranh tự hình dung cảm nhận và trả lời. Ví dụ: Dạy bài “Từ mượn” giáo viên sử dụng bức tranh thứ nhất là hình ảnh xe lửa, Bức tranh thứ hai là máy bay. Đặt câu hỏi để phục vụ cho phần II: Nguyên tắc mượn từ. Bức tranh 1 là sự vật nào (xe lửa) Bức tranh 2 là sự vật nào (máy bay) Vậy tiếng Việt đã có từ để sử dụng thế chúng ta có cần mượn từ nước ngoài không? (không) Để hiểu rõ hơn về vấn đề này một em đọc phần ý kiến phát biểu của Bác trong SGK. Sau khi giải quyết xong tình huống thứ nhất giáo viên sẽ chiếu hình Lực sĩ : Có thể đặt câu hỏi: Người trong hình này là ai? (lực sĩ). Một bức tranh có thể dùng cho nhiều phần, nhiều bài. Chẳng hạn: tranh “Dế Mèn và dế Choắt trong văn bản “ Bài học đường đời đầu tiên” (Tô Hoài) cũng có thể đưa sử dụng phục vụ cho phần 2 trong I của bài “Tìm hiểu chung về văn miêu tả”. Cũng bức tranh này có thể dùng để dạy bài “Nhân hoá”. Ngoài 3 ví dụ trong SGK thì giáo viên có thể tiến hành bằng cách yêu cầu học sinh đọc đoạn văn bản miêu tả về dế Mèn (bởi tôi ăn uống điều độ và làm việc có chừng mực khoan thai đưa cả hai chân lên vuốt râu) và đặt câu hỏi: Đoạn văn trên miêu tả con vật nào? (dế Mèn), sau đó giáo viên treo tranh và tiếp tục câu hỏi: Những từ ngữ đó vốn dùng để tả ai? (tả người) khi ta sữ dụng từ ngữ vốn để tả con người để tả con vật tức là chúng ta đã sử dụng phép tu từ nào? (nhân hoá). Việc dùng từ ngữ tả người để tả vật có tác dụng gì? (làm cho thế giới loài vật trở nên gần gũi với con người) -> từ đó hướng tới rút ra khái niệm nhân hoá và chẳng hạn bức tranh xe lửa và máy bay có thể phục vụ cho bài:”Danh từ và cụm danh từ” Ngoài việc sử dụng tranh để phục vụ cho nội dung trong SGK, giáo viên có thể tự nghĩ ra những hình ảnh khác để có thể phục vụ cho phần luyện tập. Chẳng hạn có thể sử dụng những đoạn phim hoặc hình ảnh tĩnh tùy theo đặc trưng và yêu cầu của từng bài, ví dụ : khi dạy bài “Tính từ” thì phần củng cố bài có thể chiếu đoạn phim về Vịnh Hạ Long: Sau đó yêu cầu các em viết đoạn văn ngắn miêu tả cảnh đẹp của Vịnh Hạ Long có sử dụng những tính từ. D- KẾT LUẬN: Trong dạy học không có phương pháp nào là vạn năng cả vì thế để có thể thành công người dạy phải phối kết hợp nhiều phương pháp một cách nhịp nhàng, mới đem lại kết quả tốt. Bằng phương pháp tổ chức cho học sinh tự tìm hiểu khám phá nội dung của hình ảnh trong bộ môn Ngữ văn, học sinh hứng thú tham gia vào quá trình học tập hơn. Từ đây, học sinh cũng nhận thức được hình ảnh là nguồn kiến thức để học tập chứ không phải để xem cho vui. Trên đây là một số kĩ năng trong việc khai thác hình ảnh trong dạy học Ngữ văn ở bậc THCS. Nội dung chuyên đề có thể có những thiếu sót. Rất mong được sự góp ý chân thành của quý đồng nghiệp để nội dung chuyên đề được hoàn thiện hơn. Xin chân thành cảm ơn. Người viết Bùi Thị Liên
Tài liệu đính kèm: