Đoàn Giỏi (17/5/1925 - 2/4/1989) là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam từ năm 1957.
Tiểu sử:
Đoàn Giỏi sinh ở quê tại thị xã Mỹ Tho, tỉnh Mỹ Tho (nay thuộc xã Tân Hiệp, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang), trong một gia đình địa chủ. Ông từng theo học tại trường Mỹ thuật Gia Định trong những năm 1939-1940. Khi Cách mạng tháng Tám thành công và toàn quốc kháng chiến bùng nổ, gia đình ông đã tự nguyện hiến toàn bộ nhà cửa, ruộng đất cho chính quyền Việt Minh.
Trong những năm Việt Nam chống Pháp, Đoàn Giỏi công tác trong ngành an ninh, rồi làm công tác thông tin, văn nghệ, từng giữ chức Phó trưởng Ty thông tin Rạch Giá (1949). Từ năm 1949 đến năm 1954, ông công tác tại Chi hội Văn nghệ Nam Bộ, viết bài cho tạp chí Lá Lúa, rồi tạp chí Văn nghệ Miền Nam.
Sau 1954, ông tập kết ra Bắc, đến năm 1955 ông chuyển sang sáng tác và biên tập sách báo, công tác tại Đài tiếng nói Việt Nam, rồi Hội Văn nghệ Việt Nam. Ông là ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam các khóa I, II, III. Ông là Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Đoàn Giỏi còn có các bút danh khác: Nguyễn Hoài, Nguyễn Phú Lễ, Huyền Tư.
Đoàn Giỏi Đoàn Giỏi (17/5/1925 - 2/4/1989) là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam từ năm 1957. Tiểu sử: Đoàn Giỏi sinh ở quê tại thị xã Mỹ Tho, tỉnh Mỹ Tho (nay thuộc xã Tân Hiệp, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang), trong một gia đình địa chủ. Ông từng theo học tại trường Mỹ thuật Gia Định trong những năm 1939-1940. Khi Cách mạng tháng Tám thành công và toàn quốc kháng chiến bùng nổ, gia đình ông đã tự nguyện hiến toàn bộ nhà cửa, ruộng đất cho chính quyền Việt Minh. Trong những năm Việt Nam chống Pháp, Đoàn Giỏi công tác trong ngành an ninh, rồi làm công tác thông tin, văn nghệ, từng giữ chức Phó trưởng Ty thông tin Rạch Giá (1949). Từ năm 1949 đến năm 1954, ông công tác tại Chi hội Văn nghệ Nam Bộ, viết bài cho tạp chí Lá Lúa, rồi tạp chí Văn nghệ Miền Nam. Sau 1954, ông tập kết ra Bắc, đến năm 1955 ông chuyển sang sáng tác và biên tập sách báo, công tác tại Đài tiếng nói Việt Nam, rồi Hội Văn nghệ Việt Nam. Ông là ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam các khóa I, II, III. Ông là Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Đoàn Giỏi còn có các bút danh khác: Nguyễn Hoài, Nguyễn Phú Lễ, Huyền Tư. Ngoài truyện, truyện ngắn, ký, Đoàn Giỏi còn sáng tác thơ. Đất rừng phương Nam là truyện viết cho lứa tuổi thiếu nhi rất thành công và nổi tiếng của ông. Truyện đã được dịch ra nhiều tiếng nước ngoài, tái bản nhiều lần, được dựng thành phim và in trong Tủ Sách Vàng của Nhà xuất bản Kim Đồng. Ông mất ngày 2 tháng 4 năm 1989 tại Thành phố Hồ Chí Minh vì bệnh ung thư. Ngày 7 tháng 4 năm 2000, Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh ra quyết định đặt tên ông cho một phố thuộc Quận Tân Phú. Tác phẩm: Truyện * Đường về gia hương (1948) * Cá bống mú (1956) * Đất rừng phương Nam (1957) * Cuộc truy tầm kho vũ khí (1962) Truyện ngắn * Hoa hướng dương (Đoàn Giỏi) (1960) Truyện ký * Ngọn tầm vông (1956) * Trần Văn Ơn (1955) * Từ đất Tiền Giang * Người thủy thủ già trên hòn đảo lưu đày * Đèn tôi bay về Lục Hồ Chí Minh Ký * Khí hùng đất nước (1948) * Những dòng chữ máu Nam Kỳ 1940 (1948) * Trong cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ * Cây đước Cà Mau * Tết Nguyên Đán ở Nam Bộ Kịch thơ * Người Nam thà chết không hàng (1947) * Chiến sĩ Tháp Mười (1949) Thơ * Bến nước mười hai * Truyện thằng Cồi * Giữ vững niềm tin (1954) Biên khảo * Những chuyện lạ về cá (1981) * Tê giác giữa ngàn xanh (1982) Thành tựu nghệ thuật Đoàn Giỏi là nhà văn đã biến đất rừng phương Nam trở thành thân thuộc, đáng yêu đối với độc giả, không chỉ là độc giả nhỏ tuổi. Những trang văn của ông thấm đượm hơi thở của sông nước, rừng cây, những câu chuyện cả thực cả kỳ bí của thiên nhiên Nam bộ hoang sơ và truyền được hơi thở ấy cho độc giả. Có được điều đó không những là nhờ tình yêu của ông đối với miền đất Nam bộ quê hương mà còn ở óc quan sát tỷ mỷ, tinh tế, lối văn kể chuyện hấp dẫn trong tác phẩm của mình. Ngoài lề Gia đình Đoàn Giỏi đã hiến toàn bộ nhà cửa, ruộng đất cho chính phủ và, trụ sở của Uỷ ban nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang hiện nay chính là nhà của gia đình ông. Sau khi Việt nam thống nhất năm 1975 Đoàn Giỏi đi lại rất nhiều giữa hai miền Nam, Bắc nhưng không có nhà riêng, khi ở Hà Nội ông thường ở Hội nhà văn Việt Nam và khi vào Nam ở nhờ nhà bạn bè. Trong giới văn học có kể về giai thoại Đoàn Giỏi viết "Đất rừng phương Nam". Tháng 2 năm 1957, Đoàn Giỏi nhận được đặt hàng của Hội văn nghệ Việt Nam viết một tác phẩm về thiếu nhi Nam Bộ, thời gian viết trong 4 tháng. Tuy nhiên, mãi đến tháng 5, khi nhà văn Nguyễn Huy Tưởng nhắc lại yêu cầu này và nhấn mạnh thời điểm ra đời của Nhà xuất bản Kim Đồng, Đoàn Giỏi mới bắt đầu chấp bút. Chỉ trong một tháng, ông đã kịp hoàn tất tác phẩm đúng thời gian dự kiến. Tác phẩm được xuất bản ngay thời điểm ra đời của Nhà xuất bản Kim Đồng và đã thành công vượt mức mong đợi. "Đất rừng phương Nam" được tái bản rất nhiều lần và được dịch và xuất bản ở Liên Xô, Hungari, Trung Quốc, Đức, Cuba... Tương truyền, các nhà văn Nam Bộ tập kết, cùng cư trú tại nhà số 19 Tôn Đản, Hà Nội đã có câu đối giễu Đoàn Giỏi: "Ở Trung Quốc, có ông Tào Ngu mà giỏi; Ở Việt Nam có ông Đoàn Giỏi mà ngu".. Tuy nhiên, đây chỉ là câu đối vui, không hàm ý chỉ trích mà ngầm so sánh Đoàn Giỏi có vị trí tương tự như nhà viết kịch Trung Quốc Tào Ngu. Trong tập tiểu luận - phê bình Tiếng vọng những mùa qua của Nguyễn Thị Thanh Xuân (NXB Trẻ, 2004) nhận định về tác giả Đất rừng phương Nam: “Có mảnh đất sinh ra những nhà văn, và ngược lại, có nhà văn từ trang viết đã biến miền quê riêng của mình thành miền quê chung thân thuộc trong tâm tưởng bao người... Với Đoàn Giỏi, tôi nghĩ rằng ông đã đón nhận được cái hạnh phúc đó... Ông đã đem đến cho bạn đọc cả nước những hiểu biết và tình cảm về một vùng đất mà trước đó xa ngái, hoang sơ trong hình dung của mọi người... Ông đã xây dựng những nhân vật lòng đầy nghĩa khí mà tinh tế và giàu chất văn hóa..." (Đoàn Giỏi, đất và rừng phương Nam). TS Phạm Văn Tình trong bài Mái đình - nét đẹp trong hồn quê Việt Nam viết: "Nhà văn Đoàn Giỏi, trong bài tùy bút “Măng tầm vông” đã có những dòng thật cảm động, mô tả tâm trạng của người con miền Nam tập kết ra Bắc, ngồi trên thuyền nhìn lại xóm làng của mình lần cuối: “Tôi đứng mãi trên boong, chờ đợi phút qua ngang nhà. Làng tôi, xanh ngắt những tàu dừa, tàu chuối. Mái đình cháy hơn một nửa, nhô ra giữa rặng cây. Bờ tầm vông thấp thoáng, ngọn tầm vông hoe vàng trong ánh nắng một chiều thu". “Mái đình cháy hơn một nửa" - vết tích của chiến tranh tàn phá, như một nỗi đau gieo giữa lòng nhà văn, một người con sắp tạm rời xa xứ sở. Đấy là nỗi đau đau đáu của dân tộc bao nhiêu năm. Đó là một mảnh hồn quê, làm nên một nét đẹp của xóm làng Việt Nam, từ lâu đã in vào tâm khảm mỗi con người và toả sáng trong những áng thơ văn. Tạ Duy Anh Tiểu sử: Tạ Duy Anh tên thật là Tạ Việt Dũng, sinh ngày 9/9/1959 tại xã Hoàng Diệu, huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Ðông, đã trải qua những thời kỳ nhập ngũ, giải ngũ, làm việc tại công trường thủy điện Hòa Bình và từ đó bắt đầu viết văn. Theo học trường viết văn Nguyễn Du, tốt nghiệp khóa IV, làm cán bộ giảng dạy tại trường. Tạ Duy Anh là hội viên Hội Nhà Văn từ 1993. Bút danh: Tạ Duy Anh, Lão Tạ, Bình Tâm. Thể loại: truyện ngắn, tiểu thuyết. Các tác phẩm: *Bước qua lời nguyền (1990) *Thiên thần sám hối *Luân hồi (1994) *Hiệp sĩ áo cỏ *Bến thời gian *Khúc dạo đầu (1991) *Đi tìm nhân vật *Lão Khổ (1992) Võ Quảng Võ Quảng (1920-2007) là một nhà văn nổi tiếng của Việt Nam. Sự nghiệp văn chương của ông chủ yếu tập trung về đề tài thiếu nhi. Ông cũng là người đầu tiên dịch tác phẩm "Don Quixote" sang tiếng Việt dưới bút danh Hoàng Huy từ năm 1959. Ông được nhà nước Việt Nam trao tặng Giải thường Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2007. Nhà văn Võ Quảng Ông sinh ngày 1 tháng 3 năm 1920, tại xã Đại Hòa huyện Đại Lộc tỉnh Quảng Nam. Năm 1935, trong khi đang theo học Tú tài ở Quốc học Huế, ông tham gia tổ chức Thanh niên Dân chủ ở Huế, năm 1939 làm tổ trưởng tổ Thanh niên Phản đế ở Huế. Tháng 9 năm 1941, bị chính quyền Pháp bắt giam ở nhà lao Thừa Phủ, sau đó bị đưa đi quản thúc vô thời hạn ở quê nhà. Sau khi Cách mạng tháng Tám nổ ra, ông được chính quyền Việt Minh cử làm ủy viên Tư pháp thành phố Đà Nẵng. Khi quân Pháp tái chiếm Nam Bộ, ông được cử vào chức vụ Phó chủ tịch Ủy ban Hành chính kháng chiến thành phố Đà Nẵng. Từ năm 1947 đến 1954, làm Hội thẩm chính trị (tức là Phó Chánh án) tòa án quân sự miền Nam Việt Nam. Thời gian này, ông cũng có sáng tác một số tác phẩm thơ dành cho thiếu nhi. Sau khi tập kết ra Bắc, ông được điều về công tác ở chức vụ Ủy viên Ban nhi đồng Trung ương, phụ trách văn học cho thiếu nhi. Ông là một trong những người tham gia sáng lập và từng giữ chức Giám đốc Nhà xuất bản Kim Đồng, Một thời gian sau đó, ông được cử làm Giám đốc Xưởng phim hoạt hình Việt Nam. Năm 1965, ông được kết nạp làm Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Năm 1968, ông về công tác tại Bộ Văn hóa, năm 1971, về Hội Nhà văn Việt Nam, được phân công làm chủ tịch Hội đồng Văn học Thiếu nhi Hội Nhà văn Việt Nam và giữ chức vụ này đến khi về hưu. Năm 2007, ông được trao tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật. Ông qua đời lúc 11 giờ 20 phút ngày 15 tháng 6 năm 2007 tại Hà Nội. Mộ phần của ông đang đặt tại nghĩa trang tỉnh Vĩnh Phúc. Tác.phẩm Nhà văn Võ Quảng là người viết nhiều truyện và thơ cho thiếu nhi với nhiều tác phẩm được các thế hệ yêu thích như: Cái Thăng (truyện 1961) * Thấy cái hoa nở (thơ 1962) * Chỗ cây đa làng (1964) * Nắng sớm (thơ, 1965) * Cái Mai (1967) * Những chiếc áo ấm (truyện 1970) * Anh Đom đóm (thơ, 1970) * Măng tre (thơ, 1972) * Quê nội (truyện 1973) * Tảng sáng (truyện 1973) * Bài học tốt (truyện, 1975) * Gà mái hoa (thơ 1975) * Quả đỏ (thơ 1980) * Vượn hú (truyện 1993) * Ánh nắng sớm (thơ 1993) * Kinh tuyến, vĩ tuyến (truyện 1995) * Sơn Tinh Thủy Tinh, Con 2 (kịch bản phim hoạt hình). Võ Quảng - nhà văn của thiếu nhi Đỉnh cao trong sáng tạo nghệ thuật của Võ Quảng là bộ tiểu thuyết Quê nội và Tảng sáng phản ánh sinh động những thay đổi sâu sắc ở một vùng quê mà Cách mạng tháng Tám vĩ đại đã đem lại sự hồi sinh cho mỗi người dân. Tác giả đã để ra mười lăm năm năm tâm huyết cho bộ sách này.Nhà phê bình Lê Quang Trang nói về công phu của Võ Quảng khi viết tác phẩm này như sau: "So với bản thảo đầu số chữ còn lại khoảng một phần tư. Bản thảo được chữa đi chữa lại năm lần. Có nhiều chương chữa tới sáu lần. Đấy là không kể các chi tiết câu chữ được sửa chữa thường xuyên do một ý nghĩ bất chợt nảy sinh ra. Ngay Quê nội khi in lần thứ tư (ở XBKĐ - 1983) tác giả vẫn nghiền ngẫm tiếp thu những ý kiến phê bình góp ý của đồng nghiệp mà ông thấy hợp lý để sửa chữa cho hoàn chỉnh tới mức cao nhất". Sự lao động cần mẫn và nghiêm túc đó đã đưa ông đến thành công. Về tác phẩm này giáo sư Phong Lê nguyên Viện trưởng Viện văn học Việt Nam đã viết: "Những trang viết thật dồi dào biết bao những hình ảnh sống động, văn phong được cân nhắc đến từng câu chữ, sao cho lột được thần sắc âm thanh đích thực của cuộc đời". "Một chất thơ được phát hiện không phải bằng quan sát của mắt thường mà bằng con mắt của trái tim, con mắt của tấm lòng". Nhà văn Nguyễn Tuân tâm sự: "Riêng phần tôi ngoài truyện Tảng sáng tôi lại thích truyện Quê nội. Nhà văn Tô Hoài viết: "Một nhà thơ dùng lối tiểu thuyết viết lại những kỷ niệm đối với quê hương. Trong văn học Việt Nam chúng ta đã được đọc những tác phẩm hay như Chiếc cánh xanh của Lưu Trọng Lư, Phấn thông vàng của Xuân Diệu. Nhưng Quê nội của nhà thơ Võ Quảng có vẻ đẹp cao rộng hơn". Theo nhà văn Trần Thanh Địch thì: "Đến Quê nội, Tảng sáng cương vị một nhà văn có tài năng của anh đã rõ rệt... truyện như một mùi hương ngâu mê say có sức hấp dẫn và quyến rũ lạ lùng". Nhà văn Hoàng Tiến đã có hẳn một bài viết đặc sắc về thanh nhạc trong văn xuôi Võ Quảng mà cụ thể là nhạc văn trong hai cuốn truyện Quê nội và Tảng sáng. Nhà văn Alice Kahn người dịch Quê nội sang tiếng Pháp đã viết: "Khi giới thiệu quyển truyện Quê nội người ta bảo tôi: Đây là một loại Tom Sawyer của Việt Nam. Đã từ lâu tôi rất thích quyển sách Tom Sawyer với nhân vật Hucklebery Finn. Nhưng sau khi làm quen với tác phẩm của Võ Quảng, tôi cảm thấy mình còn thích các nhân vật Cục và Cù Lao hơn". Ai cũng biết Tom Sawyer là kiệt tác của nhà văn Mỹ Măc Tuên. Như vậy thật vinh dự biết bao cho văn học Việt Nam khi nhà văn Pháp A. Kahn thông qua so sánh đã đặt Quê nội lên tầm kiệt tác. Võ Quảng cũng có một thế giới thơ thật hồn nhiên tươi trẻ. Thơ ông có bản sắc riêng thật khó mà trộn lẫn. Đó là cái nhìn luôn mới mẻ độc đáo, nhưng luôn ẩn chứa trong đó một ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Một anh đom đóm lên đèn đi gác, đi suốt đêm để lo cho mọi người yên giấc, một cành mai biết vượt bao khó khăn để nở hoa đúng dịp Tết đến. Hay như một chồi non bật vỏ khoác áo màu xanh biếc đứng giữa trời... Biết bao sự sống bình dị trong con mắt của Võ Quảng bỗng trở nên mới lạ diệu kỳ. Thơ ông rất thơ ngay từ trong cách nhìn kỳ ảo. Một đặc trưng trong thơ Võ Quảng là tính nhạc điệu lan toả trong từng câu thơ. Ông có biệt tài bắt chước tiếng kêu của những con ếch, con chẫu chàng, con ếch ương và đưa nó vào thơ thật nhuần nhuyễn như trong bài thơ Chăm học. Những âm thanh như tiếng gõ cửa, tiếng mưa rơi, tiếng gió, tiếng xe cút kít, tiếng ru hời... được ông đưa vào thơ để tạo nên chất nhạc vừa thực mà lại vừa lạ biết bao. Nét đẹp trong thơ Võ Quảng còn nằm ở màu sắc. Đó là mảng màu thật sự tươi rói hơn nhờ cảm quan vừa tinh tế vừa giàu có của người nghệ sĩ đã thổi linh hồn vào hình tượng nghệ thuật. Thơ ông còn có nhiều tiếng cười vui tươi dí dỏm, thường có ở những người sáng tạo nghệ thuật cho thiếu nhi. Võ Quảng thực sự đã góp được một tiếng thơ thật đặc sắc trong làng thơ Việt Nam.
Tài liệu đính kèm: