Tác giả văn học trong chương trình Ngữ văn 6

Tác giả văn học trong chương trình Ngữ văn 6

Tô Hoài - nhà văn của những sự lạ

Không ai bảo ông là lập dị. Ông chủ trương sống hòa vào với đời thường, song những chuyện kể dưới đây thì quả là rất. lạ. Và người viết bài này, nếu không có một thời gian làm trợ lý cho ông ở Hội Văn nghệ Hà Nội thì hẳn cũng khó hình dung rằng ở ông lại có thể nảy sinh những chuyện dị thường như thế.

Nhà văn Tô Hoài

Bên cạnh những tính từ biểu cảm mà các nhà thơ, nhà văn ta vẫn dùng khi ký tặng sách nhau (như “Rất yêu quý tặng.”, “Rất thân yêu tặng.”, “Rất trân trọng tặng.”) thì mấy chữ “Thân tặng.” vẫn được dùng nhiều hơn cả. Người ta có thể vung tay, hạ bút viết mấy chữ này cho những đối tượng mới gặp lần đầu mà chẳng phải đắn đo cân nhắc gì. Thậm chí, có không ít trường hợp tác giả vừa nắn nót hai chữ “Thân tặng” xong đã quay lại hỏi người đang ngồi kế bên mình: “Thân tặng gì nhỉ?”. Nghĩa là chữ “thân” ấy có thể tặng cho người “sơ” .

Nhưng với Tô Hoài thì khác, trong muôn một cách đề tặng, ông chỉ dùng độc một chữ “Tặng.” bất kể người được ông tặng sách là ai, có bề dày quan hệ như thế nào. Thoạt đầu, tôi rất ngạc nhiên về sự “kiệm” chữ này của bậc lão làng. Chí ít thì tôi cũng là trợ lý của ông (bấy giờ ông đang là Chủ tịch Hội Văn nghệ Hà Nội), hai bác cháu cùng làm việc trong một phòng. Nhưng rồi, nhìn sang các anh Vũ Quần Phương, Bằng Việt - những người tuổi tác hơn tôi nhiều và cũng đều là những vị có chức sắc ở Hội, thì sự tình cũng “rứa” cả. Bên trên chữ ký Tô Hoài cũng chỉ là mấy chữ “Tặng Vũ Quần Phương”, “Tặng Bằng Việt” gọn lỏn, không một chút sắc thái biểu cảm. Đem chuyện lạ này ra đặt vấn đề với chính Tô Hoài, ông hóm hỉnh giải thích: “Tôi chỉ đề “tặng” thế thôi. Nhỡ hôm nay “thân”, mai không “thân” nữa thì sao?”!

 

doc 21 trang Người đăng phuongnga36 Lượt xem 1220Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tác giả văn học trong chương trình Ngữ văn 6", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Ngữ văn
Tác giả văn học trong chương trình Ngữ văn 6
Tô Hoài 
Tô Hoài - nhà văn của những sự lạ 
Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Tô Hoài
Đoàn Giỏi 
Những nhận định về tác phẩm của Đoàn Giỏi
Tạ Duy Anh 
Võ Quảng 
Võ Quảng - cuộc đời và sự nghiệp 
Võ Quảng - nhà văn của thiếu nhi
An-phông-xơ Đô-đê 
Minh Huệ 
Tố Hữu 
Tiểu sử nhà thơ Tố Hữu 
Sự nghiệp sáng tác của Tố Hữu
Trần Đăng Khoa 
Nguyễn Tuân 
Con người và cuộc đời Nguyễn Tuân 
Sự nghiệp sáng tác và phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân
Thép Mới 
I-li-a E-ren-bua 
Duy Khán
Tô Hoài
Tô Hoài - nhà văn của những sự lạ
Tô Hoài - nhà văn của những sự lạ
Không ai bảo ông là lập dị. Ông chủ trương sống hòa vào với đời thường, song những chuyện kể dưới đây thì quả là rất... lạ. Và người viết bài này, nếu không có một thời gian làm trợ lý cho ông ở Hội Văn nghệ Hà Nội thì hẳn cũng khó hình dung rằng ở ông lại có thể nảy sinh những chuyện dị thường như thế. 
Nhà văn Tô Hoài 
Bên cạnh những tính từ biểu cảm mà các nhà thơ, nhà văn ta vẫn dùng khi ký tặng sách nhau (như “Rất yêu quý tặng...”, “Rất thân yêu tặng...”, “Rất trân trọng tặng...”) thì mấy chữ “Thân tặng...” vẫn được dùng nhiều hơn cả. Người ta có thể vung tay, hạ bút viết mấy chữ này cho những đối tượng mới gặp lần đầu mà chẳng phải đắn đo cân nhắc gì. Thậm chí, có không ít trường hợp tác giả vừa nắn nót hai chữ “Thân tặng” xong đã quay lại hỏi người đang ngồi kế bên mình: “Thân tặng gì nhỉ?”. Nghĩa là chữ “thân” ấy có thể tặng cho người “sơ” .
Nhưng với Tô Hoài thì khác, trong muôn một cách đề tặng, ông chỉ dùng độc một chữ “Tặng...” bất kể người được ông tặng sách là ai, có bề dày quan hệ như thế nào. Thoạt đầu, tôi rất ngạc nhiên về sự “kiệm” chữ này của bậc lão làng. Chí ít thì tôi cũng là trợ lý của ông (bấy giờ ông đang là Chủ tịch Hội Văn nghệ Hà Nội), hai bác cháu cùng làm việc trong một phòng... Nhưng rồi, nhìn sang các anh Vũ Quần Phương, Bằng Việt - những người tuổi tác hơn tôi nhiều và cũng đều là những vị có chức sắc ở Hội, thì sự tình cũng “rứa” cả. Bên trên chữ ký Tô Hoài cũng chỉ là mấy chữ “Tặng Vũ Quần Phương”, “Tặng Bằng Việt” gọn lỏn, không một chút sắc thái biểu cảm. Đem chuyện lạ này ra đặt vấn đề với chính Tô Hoài, ông hóm hỉnh giải thích: “Tôi chỉ đề “tặng” thế thôi. Nhỡ hôm nay “thân”, mai không “thân” nữa thì sao?”!
Lại hỏi chuyện ông đề tặng các bậc đàn anh, ví như với trường hợp nhà văn Nguyễn Công Hoan, liệu có gì khác không? Vì theo tôi được biết, Nguyễn Công Hoan đã từng có bài nhận xét (đã in trên báo) rất chí lý và thú vị về cuốn tiểu thuyết Đảo hoang của Tô Hoài. Lão nhà văn thoáng nhíu mày, rồi ông nguầy nguậy lắc đầu: “Với ai tôi cũng đều đề tặng vậy cả. Vả lại, tôi cũng rất ít tặng sách ai. Như cụ Hoan, cụ ấy đáng tuổi bố tôi, là bậc đàn anh của tôi trong văn chương. Nếu cụ muốn, thì cụ cứ việc đến lấy sách của tôi mang về, hoặc mượn ở thư viện Hội Nhà văn, chứ không cần tôi phải tặng”.
Công khai... sai chính tả
Trong những người viết, không phải ai cũng dám khẳng định như đinh đóng cột rằng mình không bao giờ viết sai chính tả. Tuy vậy, những lỗi này sẽ được hạn chế rất nhiều nếu ta là người đọc nhiều và chịu chú ý rút kinh nghiệm từ những lần “vấp” trước.
Không thể nói Tô Hoài là người không đọc nhiều. Hơn thế, ông còn thuộc số những người chịu đọc nhất Việt Nam. Và về số lượng đầu sách đã xuất bản (xấp xỉ 200 cuốn), ông hiện đứng ở vị trí mà không nhà văn Việt Nam nào sánh được. Tuy nhiên, tất cả những điều ấy không ngăn cản khi sáng tác, Tô Hoài đã để lọt nhiều lỗi chính tả. Dường như quá mải mê vào việc sửa câu, gọt chữ, ông tỏ ra lúng túng khi đối mặt với những chữ cái có cùng phụ âm: x và s, ch và tr, l và n... hoặc giả ông cứ thế bỏ qua mà chạy theo mạch ý tưởng, phó thác mọi việc cho những người sửa morat ở các nhà xuất bản và tòa báo?
Xin được giới thiệu một trích đoạn của lão nhà văn gửi tác giả bài viết này cách đây hơn chục năm: “Phạm Khải đọc lại báo cáo này, những chỗ nào tôi viết khó xem hoặc sai chính tả thì chữa, cho in ngay theo số lượng người và nơi gửi mà công văn tôi viết đây...”. Như vậy, bạn đọc có thể thấy lão nhà văn của chúng ta ý thức rất rõ những hạn chế của mình, và ông công khai thừa nhận điều này.
Nhưng có lẽ Tô Hoài không có ý buông xuôi như vậy. Gần đây tới thăm ông, nhắc lại chuyện trên, tôi thấy ông mủm mỉm cười nói, ông đã mua một cuốn Từ điển tiếng Việt và tra cứu thường xuyên khi sáng tác. Ông nói: “Có tật phải sửa. Chứ ngần này tuổi rồi, cứ để sai chính tả mãi thế... ngượng lắm!”.
Thích phiêu lưu và chịu thu lu
Tác phẩm nổi tiếng nhất của nhà văn Tô Hoài là tác phẩm kể về cuộc phiêu lưu của chú dế mèn (truyện Dế mèn phiêu lưu ký), và tác phẩm lớn nhất của đời văn Tô Hoài là những câu chuyện kể lại cuộc phiêu lưu của chính ông. Quả tình, trong số các nhà văn Việt Nam, hiếm ai được xuất ngoại nhiều như ông già này (dễ đến gần trăm lần, đa phần là mời đích danh). Bàn chân ông đã chuyển dịch suốt từ Đông sang Tây, từ Nam xuống Bắc, từ đền Angkor Wat ở Campuchia đến Kim Tự Tháp ở Ai Cập. Tất cả những chuyến phiêu du ấy đều được ông ghi lại trong các tác phẩm của mình. Và để làm được việc này, hiển nhiên ông cũng dành không ít thời gian giam mình bên bàn viết.
Cứ theo Tô Hoài tâm sự, thì ông thuộc típ người chịu thương chịu khó. Như chú dế mèn thu lu trong tổ, ông có thể lụi cụi bên bàn viết từ ngày này sang tháng khác mà không mấy ngứa ngáy, khó chịu. Nhiều người đến thăm ông, vì không liên hệ điện thoại “đăng ký” trước nên đã phải ra về vì cụ bà đã chuẩn bị sẵn một câu trả lời thường trực, rằng cụ ông không có nhà. Thường thì Tô Hoài tập trung tinh lực để viết các cuốn truyện dài, khi nào mệt, cần xả hơi giữa chừng thì ông quay sang viết... truyện ngắn hoặc bút ký, ghi chép. Để giãn xương cốt, đôi khi ông quay về giường nằm... đọc sách.
Viết cũng là một cách... tập thể dục?
“Bởi tôi ăn uống điều độ và làm việc có chừng mực nên tôi chóng lớn lắm” - ấy là câu ông viết về chú dế mèn. Sự thực, ở ngoài đời, việc ăn của Tô Hoài thế nào tôi không rõ, chứ riêng khoản uống thì quả là ông cũng không được điều độ cho lắm. Nghĩa là, khi vui ông vẫn uống hết mình, bất kể sức khỏe, tuổi tác. Tôi từng chứng kiến cảnh ông say, nói năng líu ríu trong một lần ông đi nhậu cùng nhà văn Nguyễn Quang Sáng. Bạn đọc hẳn khó hình dung khi thấy một ông già đã cận kề tuổi 90, vậy mà lúc hứng lên vẫn có thể làm một hơi “đi” cả cốc rượu mạnh cỡ bự. Rượu đã vậy, bia hơi ông có thể làm tới... dăm vại.
Viết tới đây, bất giác tôi lại nhớ tới lần phóng viên Trang Dũng thực hiện bộ ảnh chân dung ông. Xong việc, hai ông cháu đi làm vài chầu bia ở quán Trâm Bầu, gần nhà ông. Khi về, Trang Dũng nắc nỏm ca ngợi phong độ của ông cụ. Còn Tô Hoài khi nhắc lại với tôi chuyện này, ông “chê” Trang Dũng “thanh niên mà uống kém quá”, khiến cho “lão già đành chỉ dừng lại ở mức... 3 vại”.
Tiếp xúc với Tô Hoài, nhiều người đã phải ngạc nhiên khi thấy ông mặc dù tuổi đã cao song sức vóc còn dẻo dai, trí tuệ còn tường minh lắm. Hỏi ông có năng tập thể dục không thì ông mủm mỉm cười, lắc đầu, nói thi thoảng nổi hứng ông mới lại bách bộ một vòng quanh hồ Thiền Quang. Ông bảo “sống chết có số” và kể chuyện ở phố Lê Trực đã xảy trường hợp vì quá ham tập thể dục mà một cụ ông đã chạy quá đà và ngã từ trên sân thượng nhà ba tầng xuống đường. Ông còn bảo, ông sẵn sàng đổi thời gian tập thể dục hàng ngày cho việc viết và xin trời phật nếu cần cứ “khấu trừ” vào tuổi thọ của ông.
Người “mát tính” ở nơi “đất nóng”
Những người từng làm việc với nhà văn Tô Hoài đều có chung nhận định, ông là người “mát tính”. Rất hiếm khi họ thấy ông to tiếng với ai, dù rằng ở ông, cái sự yêu - ghét cũng giống như nhiều người khác. Có lẽ sự từng trải đã khiến ông có được phản xạ “phớt lờ” phản ứng của người đời nếu điều ấy làm ông “mua bực vào mình”, ảnh hưởng tới tâm lý sáng tạo. Có phải thế chăng mà nhà thơ Vũ Quần Phương từng viết trên báo rằng, những khi cơ quan có “sự”, Tô Hoài thường cáo ốm để đi... nằm viện?
Chuyện kể rằng, một lần, Hội Văn nghệ Hà Nội tổ chức hội nghị. Một nhân vật quá khích đã tìm cách len lên diễn đàn để phát biểu công kích lãnh đạo Hội. Song nhân vật này mới nói được vài câu mào đầu đã phải chưng hửng chuyển “đề tài” vì người cần để anh ta trút nỗi niềm là cụ Tô Hoài thì mới thoáng thấy ngồi trên hàng ghế đầu, nay đã lại ở tít mãi ngoài sân, đang đứng nói chuyện với một vị khách nào đó. Việc ông bỏ ra ngoài như thế xảy ra không ít lần. Âu cũng là một cách xì van cho quả bóng bớt “căng”?
Lại một lần khác, từ phòng Chủ tịch Hội bước ra, lão nhà văn chợt nghe thấy những tiếng gay gắt phát ra từ phòng họp của Báo Người Hà Nội. Thì ra, nữ nhà thơ Phó tổng biên tập của báo đang bị một nam cán bộ cấp dưới đập bàn, dọa dẫm. Với cương vị Chủ tịch Hội, đúng ra việc này ông cần phải hỏi rõ sự tình và có ý kiến. Song có lẽ ý thức được rằng đây là “chuyện thường ngày ở... Hội” nên lão nhà văn chỉ biết cắp catáp lỉnh vội xuống cầu thang, miệng “rền rĩ” một câu đùa (cốt để các cán bộ của báo nghe thấy): “Khổ lắm, cứ mắng mỏ “người yêu” của tôi mãi thôi...”. Mọi người nghe vậy phì cười. Hóa ra câu đùa này lại có hiệu quả.
Hội Văn nghệ Hà Nội một thời được coi là “đất dữ”. Nội bộ lục đục triền miên. Đã có lãnh đạo Hội phải “nửa đường xuống ngựa”. Nhưng với Tô Hoài thì mọi sự vẫn bình chân như vại. Thì ông đã chẳng từng phát biểu: “Ai nói ở đây thường xuyên “động đất”. Tôi làm Chủ tịch Hội tới cả 30 năm, có thấy “động” gì đâu?”. Có lẽ, sự điềm tĩnh đã giúp ông “thoát hiểm” ở một môi trường có tiếng là phức tạp này. 
(Theo hanoi.vnn.vn)
Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Tô Hoài
Nhà văn Tô Hoài tên thật là Nguyễn Sen, sinh ngày 27 tháng 9 năm 1920 (tức ngày 16-8 năm Canh Thân) tại thị trấn Nghĩa Đô, Tử Liêm, Hà Nội.
Quê quán: thị trấn Kim Bài, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây.
Nơi ở hiện nay: thị trấn Nghĩa Đô Hà Nội.
Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam có bằng Cao đẳng tiểu học, Hội viên sáng lập Hội Nhà văn Việt Naln 1957. 
Tô Hoài tham gia cách mạng tứ trước Cách mạng tháng Tám ( 1945) trong Hội ái hữu công nhân, Hội Văn hoá Cứu quốc.
Từ 1945 - 1958 làm phóng viên rồi Chủ nhiệm báo Cứu quốc Việt Bắc.
Từ 1957 - 1958 Tổng thư ký Hội Nhà văn Việt Nam.
Từ 1958 - 1980 Phó Tổng thư ký Hội Nhà văn Việt Nam.
Từ 1986 - 1996 Chủ tịch Hội Văn nghệ Hà Nội. 
Các bút danh: 
Tô Hoài, Mai Trang, Mắt Biển, Thái Yên, Vũ Đột Kích, Hồng Hoa.
Tác phẩm chọn lọc
150 tác phẩm, trong đó nổi bật là:
- Dế mèn phiêu lưu ký (truyện dài, 1942, tái bản nhiều lần);
- Quê người (tiểu thuyết, 1943, tái bản nhiều lần);
- Truyện Tây Bắc (tiểu thuyết, 1954 tái bản nhiều lầ ...  cổ truyền của dân tộc. Ông yêu tha thiết tiếng Việt, những kiệt tác văn chương của Nguyễn Du, Đoàn Thị Điểm, Tú Xương, Tản Đà..., những nhạc điệu hoặc đài của các lối hát ca trù hoặc dân dã mà thiết tha, những nét đẹp rất riêng của Việt Nam.
* Ở Nguyễn Tuân, ý thức cá nhân phát triển rất cao. Ông viết văn trước hết để khẳng định cá tính độc đáo của mình, tự gán cho mình một chứng bệnh gọi là "chủ nghĩa xê dịch". Lối sống tự do phóng túng của ông không phù hợp với chế độ thuộc địa.
* Nguyễn Tuân là con người rất mực tài hoa. Tuy chỉ viết văn nhưng ông còn am hiểu nhiều môn nghệ thuật khác: hội hoạ, điêu khắc, sân khấu, điện ảnh... Ông còn là một diễn viên kịch nói và là một diễn viên điện ảnh đầu tiên ở Việt Nam. Ông thường vận dụng con mắt của nhiều ngành nghệ thuật khác nhau để tăng cường khả năng quan sát, diễn tả của nghệ thuật văn chương.
* Nguyễn Tuân là một nhà văn biết quý trọng thật sự nghề nghiệp của mình. Đối với ông, nghệ thuật là một hình thái lao động nghiêm túc, thậm chí "khổ hạnh" và ông đã lấy chính cuộc đời cầm bút hơn nửa thế kỷ của mình để chứng minh cho quan niệm ấy.
Sự nghiệp sáng tác và phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân
Sự nghiệp văn chương
Quá trình sáng tác và các đề tài chính của Nguyễn Tuân:
Nguyễn Tuân không phải là nhà văn thành công ngay từ những tác phẩm đầu tay. Ông đã thử bút qua nhiều thể loại: thơ, bút kí, truyện ngắn hiện thực trào phúng. Nhưng mãi đến đầu năm 1938, ông mới nhận ra sở trường của mình và thành công xuất sắc với các tác phẩm: Một chuyến đi, Vang bóng một thời, Thiếu quê hương, Chiếc lư đồng mắt cua... 
Tác phẩm Vang bóng một thời của Nguyễn Tuân 
Tác phẩm Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám chủ yếu xoay quanh ba đề tài: "chủ nghĩa xê dịch", vẻ đẹp "vang bóng một thời", và "đời sống truỵ lạc".
Nguyễn Tuân đã tìm đến lí thuyết "chủ nghiã xê dịch" này trong tâm trạng bất mãn và bất lực trước thời cuộc. Nhưng viết về "chủ nghĩa xê dịch", Nguyễn Tuân lại có dịp bày tỏ tấm lòng gắn bó tha thiết của ông đối với cảnh sắc và phong vị của đất nước mà ông đã ghi lại được bằng một ngòi bút đầy trìu mến và tài hoa (Một chuyến đi).
Không tin tưởng ở hiện tại và tương lai, Nguyễn Tuân đi tìm vẻ đẹp của quá khứ còn "vang bóng một thời" ông mô tả vẻ đẹp riêng của thời xưa với những phong tục đẹp, những thú tiêu dao hưởng lạc lành mạnh và tao nhã. Tất cả được thể hiện thông qua những con người thuộc lớp người nhà Nho tài hoa bất đắc chí, tuy đã thua cuộc nhưng không chịu làm lành với xã hội thực dân (như Huấn Cao trong Chữ người tử tù).
Nguyễn Tuân cũng hay viết về đề tài đời sống truỵ lạc. Ở những tác phẩm này, người ta thường thấy có một nhân vật "tôi" hoang mang bế tắc. Trong tình trạng khủng hoảng tinh thần ấy, người ta thấy đôi khi vút lên từ cuộc đời nhem nhuốc, phàm tục niềm khao khát một thế giới tinh khiết, thanh cao (Chiếc lư đồng mắt cua).
Từ sau Cách mạng tháng Tám 1945, ông chân thành đem ngòi bút phục vụ cuộc chiến đấu của dân tộc, nhưng Nguyễn Tuân luôn luôn có ý thức phục vụ trên cương vị của một nhà văn, đồng thời vẫn muốn phát huy cá tính và phong cách độc đáo của mình. Ông đã đóng góp cho nền văn học mới nhiều trang viết sắc sảo và đầy nghệ thuật ca ngợi quê hương đất nước, ca ngợi nhân dân lao động trong chiến đấu và sản xuất.
Phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân
Nguyễn Tuân có một phong cách nghệ thuật rất độc đáo và sâu sắc.
Trước Cách mạng tháng Tám, phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân có thể thâu tóm trong một chữ "ngông".
Thể hiện phong cách này, mỗi trang viết của Nguyễn Tuân đều muốn chứng tỏ tài hoa uyên bác. Và mọi sự vật được miêu tả dù chỉ là cái ăn cái uống, cũng được quan sát chủ yếu ở phương diện văn hoá, mĩ thuật.
Trước Cách mạng tháng Tám, ông đi tìm cái đẹp của thời xưa còn vương sót lại và ông gọi là Vang bóng một thời. Sau Cách mạng, ông không đối lập giữa quá khứ, hiện tại và tương lai. Văn Nguyễn Tuân thì bao giờ cũng vậy, vừa đĩnh đạc cổ kính, vừa trẻ trung hiện đại.
Nguyễn Tuân học theo "chủ nghĩa xê dịch". Vì thế Ông là nhà văn của những tính cách phi thường, của những tình cảm, cảm giác mãnh liệt, của những phong cảnh tuyệt mĩ, của gió, bão, núi cao rừng thiêng, thác ghềnh dữ dội...
Nguyễn Tuân cũng là một con người yêu thiên nhiên tha thiết. Ông có nhiều phát hiện hết sức tinh tế và độc đáo về núi sông cây cỏ trên đất nước mình. Phong cách tự do phóng túng và ý thức sâu sắc về cái tôi cá nhân đã khiến Nguyễn Tuân tìm đến thể tuỳ bút như một điều tất yếu.
Nguyễn Tuân còn có đóng góp không nhỏ cho sự phát triển của ngôn ngữ văn học Việt Nam.
Sau Cách mạng tháng Tám, phong cách Nguyễn Tuân có những thay đổi quan trọng. Ông vẫn tiếp cận thế giới, con ngừơi thiên về phương diện văn hóa nghệ thuật, nghệ sĩ, nhưng giờ đây ông còn tìm thấy chất tài hoa nghệ sỹ ở cả nhân dân đại chúng. Còn giọng khinh bạc thì chủ yếu chỉ là để ném vào kẻ thù của dân tộc hay những mặt tiêu cực của xã hội.
Tác phẩm
* Ngọn đèn dầu lạc (1939)
* Vang bóng một thời (1940)
* Chiếc lư đồng mắt cua (1941)
* Tàn đèn dầu lạc (1941)
* Một chuyến đi (1941)
* Tùy bút (1941)
* Tóc chị Hoài (1943)
* Tùy bút II (1943)
* Nguyễn (1945)
* Chùa Đàn (1946)
* Đường vui (1949)
* Tình chiến dịch (1950)
* Thắng càn (1953)
* Chú Giao làng Seo (1953)
* Đi thăm Trung Hoa (1955)
* Tùy bút kháng chiến (1955)
* Tùy bút kháng chiến và hòa bình (1956)
* Truyện một cái thuyền đất (1958)
* Sông Đà (1960)
* Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi (1972)
* Ký (1976)
* Tuyển tập Nguyễn Tuân (tập I: 1981, tập II: 1982)
* Yêu ngôn (2000, sau khi mất)
Kết luận
Có người nói, Nguyễn Tuân là một cái định nghĩa về người sĩ. Đối với ông, văn chương trước hết phải là văn chương, nghệ thuật trước hết phải là nghệ thuật, và đã là nghệ thuật thì phải có phong cách độc đáo. Nhưng Nguyễn Tuân, xét từ bản chất, không phải là người theo chủ nghĩ hình thức. Tài phải đi đôi với tâm. Ấy là "thiên lương" trong sạch, là lòng yêu nước thiết tha, là nhân cách cứng cỏi trước uy quyền phi nghĩa và đồng tiền phàm tục.
Người đọc mến Nguyễn Tuân về tài, nhưng còn trọng ông về nhân cách ấy nữa. Văn Nguyễn Tuân, tuy thế, không phải ai cũng ưa thich. Vả lại một số bài viết của ông cũng có nược điểm: mạch văn quá phóng túng theo lối tùy hứng, khó theo dõi; nhiều đoạn tham phô bày kiến thức và tư liệu khiến người đọc cảm thấy nặng nề... 
Thép Mới
Thép Mới: tên thật là Hà Văn Lộc sinh năm 1925, mất năm 1991. Quê: phường Quảng An, quận Tây Hồ, Hà Nội
Các bút danh: Thép Mới, Phượng Kim, Hồng Châu.
Thể loại sở trường: ký.
Tiểu sử.
- Năm 1938, vào Đoàn Thanh niên Dân chủ ở Nam Định. 
- Từ năm 1944 đến 8/1945, tham gia Thanh niên Cứu quốc. Bút danh Thép Mới xuất hiện lần đầu tiên trên báo "Cờ Giải phóng" với bài "Trung thu độc lập". 
- Tháng 12.1946, công tác ở báo "Cứu quốc". 
- Năm 1947, biên tập viên, phóng viên báo "Sự thật". 
- Từ tháng 2.1951, công tác ở báo "Nhân dân". 
- Năm 1962, tham gia Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam. 
- Năm 1964, đặc phái viên của báo "Nhân dân" ở chiến trường Miền Nam. 
- Từ 1968 đến 1971, uỷ viên Ban Tuyên huấn Trung ương Cục Miền Nam, tổng biên tập báo "Giải phóng". 
- Từ 1972, phó tổng biên tập báo "Nhân dân". 
- Từ 1988 đến 1991, bình luận viên cao cấp báo "Nhân dân", công tác tại Thành phố Hồ Chí Minh. 
Vào tuổi 20, Thép Mới tham gia phong trào sinh viên cứu quốc, vǎn hóa cứu quốc và tổng khởi nghĩa ở Hà Nội. Cùng với Nguyễn Huy Tưởng, Thôi Hữu, Thép Mới trở thành nhà báo cách mạng chuyên nghiệp của Đảng. Từ bài báo đầu tiên Vǎn chương và thời cuộc đǎng trên báo Tự Trị của Tổng hội sinh viên Việt Nam, số tháng 6 nǎm 1945 ký tên Hà Vǎn Lộc, đến bài Tân trào nhập vào Hà Nội - bài viết cuối cùng của Thép Mới đǎng báo Nhân Dân giữa tháng 8/1991, Thép Mới luôn là một phóng viên thực thụ. Anh không hứng thú chức tước, tiền bạc càng không màng.
Khi được hỏi: Tại sao lại lấy bút danh là Thép Mới? Ông đã trả lời: "Thép là Thép đã tôi thế đấy cuốn sách mình dịch ra tiếng Việt của nhà vǎn Xô Viết N.A.Ô-xtơ-rôp-ki; còn Mới là không cũ.
Cả cuộc đời nửa thế kỷ cầm bút, Thép Mới luôn gắn bó máu thịt với cách mạng, với nhân dân, buồn vui với số phận thǎng trầm của cách mạng, của nhân dân.Hiện nay ở Sài Gòn có một đường phố mang tên Thép Mới gần ngã tư Bẩy Hiền, nơi Mậu Thân 68 anh đã từng sống và chiến đấu như một người lính thực sự.
Các tác phẩm:
- Kháng chiến sau luỹ tre, trên đồng lúa (1947)
- Ý nghĩ người phóng viên kháng chiến (1948)
- Trách nhiệm (1951)
- Trường Sơn hùng tráng (1967)
- Điện Biên Phủ, một danh từ Việt Nam (1964)
- Cây tre Việt Nam
- Sáng đỉnh Trường Sơn
Giải thưởng: Huân chương Độc lập hạng nhì và nhiều huân, huy chương cao quý khác.
I-li-a E-ren-bua
Tiểu sử 
Ilia Grigor'evich Erenburg; sinh năm 1891 mất năm 1967, nhà văn Nga Xô Viết, nhà hoạt động xã hội. Ông đã sống nhiều năm ở Pháp, Đức, Tây Ban Nha; làm phóng viên trong chiến tranh; đại diện cho các nhà văn Liên Xô tại các hội nghị quốc tế bảo vệ hoà bình, văn hoá, chống chủ nghĩa phát xít. Phó chủ tịch Hội đồng Hoà bình Thế giới (1950), đại biểu Xô Viết Tối cao Liên Xô (1950).
Các tác phẩm: 
- Tiểu thuyết Khuliô Khurenitô (1922), Pari sụp đổ (1941) phê phán xã hội tư sản Châu Âu và chiến tranh đế quốc. 
- Tiểu thuyết Ngày hôm sau (1933) viết về cuộc sống trên đất nước Xô Viết, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, ca ngợi con người mới. 
- Tiểu thuyết Bão táp (1946 - 47) viết về Chiến tranh thế giới II (1939 - 45). 
Êrenbua còn có nhiều tập thơ, tiểu luận, phê bình, chân dung văn học. Tập hồi kí nghệ thuật Con người, năm tháng, cuộc đời (1961 - 65) gồm 6 tập, ghi lại những quan sát và cảm xúc qua nhiều năm hoạt động văn học, xã hội. 
Các giải thưởng
- Giải thưởng Nhà nước Liên Xô (1942, 1948). 
- Giải thưởng Hoà bình quốc tế Lênin (1952).
Duy Khán
Tiểu sử
Tên khai sinh: Nguyễn Duy Khán. Sinh ngày 6 tháng 8 năm 1934. Quê gốc xã Nam Sơn huyện Quế võ, tỉnh Bắc Ninh. Mất ngày 29 tháng 1 năm 1993 tại Hải Phòng. Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam
Duy Khán sinh trưởng trong một gia đình nông dân nghèo, học dở dang trong vùng tạm chiếm, trốn ra vùng tự do nhập ngũ. Trước ở bộ binh, sau về quân chủng Phòng không – không quân. Từng làm giáo viên văn hoá trong quân đội, sau chuyển làm phóng viên phát thanh quân đội. Về tạp chí Văn nghệ Quân đội làm biên tập viên, phóng viên năm 1972.
Tác phẩm đã xuất bản
- Trận mới (Thơ, 1972)
- Tâm sự người đi (Thơ, 1987)
- Tuổi thơ im lặng (Truyện, 1986)
Giải thưởng
- Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam 1987 cho tác phẩm Tuổi thơ im lặng
- Giải thưởng Nhà nước về Văn học - Nghệ thuật năm 2007

Tài liệu đính kèm:

  • doctu lieu.doc