Sáng kiến kinh nghiệm - Làm thế nào để kích thích học sinh cá biệt vươn lên trong học tập - Năm học 2006-2007 - Phạm Thị Thùy Linh

Sáng kiến kinh nghiệm - Làm thế nào để kích thích học sinh cá biệt vươn lên trong học tập - Năm học 2006-2007 - Phạm Thị Thùy Linh

II/ NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP THỰC HIỆN:

1. Những biểu hiện bên ngoài của học sinh cá biệt:

Nói đến học sinh cá biệt bao gồm:

a) Cá biệt về học tập:

+ Học sinh có những biểu hiện lười biếng ở tất cả các môn học, hoặc chỉ có một môn nào đó văn hoặc toán

+ Học sinh thường lơ đãng trong giờ học, không chịu nghe giảng, về nhà không chịu làm bài, học bài từ đó học kém, sa sút.

b) Cá biệt về tính cách:

-Học sinh không chấp hành nội quy, không tham gia phong trào, đi học trễ. Có những biểu hiện khác lạ về cá tính như đến lớp đánh bạn, nghịch ngợm, phá phách hơn người.

2. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng cá biệt của học sinh:

A. Do gia đình: Gia đình có ảnh hưởng rất lớn đến trẻ vì ngoài thời gian đi học hầu hết thời gian còn lại các em sống với gia đình.

- Vì cuộc sống gia đình quá khó khăn, thiếu thốn kinh tế, bố mẹ mất việc làm. Từ đó trẻ phải lo toan cuộc sống bằng cách phụ bố mẹ làm một công việc gì đó để kiếm tiền, trẻ không có điều kiện để học tập sa sút dẫn đến trẻ chán nản lười học.

- Do gia đình bất ổn như cha mẹ chia tay, trẻ phải ở với bố hoặc mẹ hoặc những người thân khác trong gia đình. Trẻ ít được quan tâm, giáo dục, mất đi chỗ dựa từ phía gia đình nên hư hỏng, sống bất cần, phó mặc cho cuộc sống muốn ra sao thì ra.

- Do kinh tế gia đình khá giả, bố mẹ lo làm ăn kiếm tiền ít quan tâm đến việc giáo dục con cái mà chỉ bỏ tiền ra chiều theo nhu cầu không chính đáng của con cái. Chính vì quá nuông chiều con như vậy cha mẹ không rèn luyện cho con thói quen trong học tập, sinh hoạt tập thể. Điều đó đã vô tình tạo cho trẻ tính lười biếng thói ỷ lại vào bố mẹ, không chịu rèn luyện. Từ đó, trẻ có những thói hư tật xấu.

B. Môi trường học tập:

- Lớp học có sỉ số quá đông cũng là một vấn đề ảnh hưởng đến việc học của trẻ. Theo tôi, nếu lớp học quá đông. Giáo viên không thể quan tâm sâu sắc đến từng em. Mà kinh nghiệp cho thấy trẻ nhỏ cần được quan tâm, chỉ dẫn của người lớn mà trường học đó là giáo viên chủ nhiệm. Nếu chúng ta không quan tâm đến trẻ thì trẻ rất dễ lơ là việc học của bản thân.

- Lớp học có nhiều học sinh cá biệt cũng là môi trường không tốt đối với trẻ. Trẻ sẽ dễ bị sa ngã theo chúng bạn.

- Đối với học sinh cá biệt thì chỗ ngồi cũng ảnh hưởng rất lớn đến trẻ, một học sinh cá biệt ngồi xa tầm quan sát của giáo viên. Giáo viên ít có điều kiện theo dõi những hành động quậy phá nói chuyện hoặc lơ đãng việc học của học sinh.

- Mối quan hệ giữa giáo viên và học sinh: chẳng hạn như người thầy không tìm hiểu trẻ, có những thành kiến nghiêm khắc đối với trẻ hoặc các giảng dạy của thầy làm cho trẻ không thích học.

+ Mặc cảm tự tôn: Đứa trẻ tự tự thấy mình là hơn người, học giỏi không cần phải học hỏi ai.

+ Mặc cảm tự ti: Đứa trẻ cảm thấy mình bị hất hủi, bị tập thể ruồng bỏ.

 

doc 13 trang Người đăng lananh572 Lượt xem 502Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm - Làm thế nào để kích thích học sinh cá biệt vươn lên trong học tập - Năm học 2006-2007 - Phạm Thị Thùy Linh", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHÒNG GD – ĐT QUẬN TÂN PHÚ
TRƯỜNG TIỂU HỌC TÔ VĨNH DIỆM
˜ { ™
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI:
LÀM THẾ NÀO ĐỂ KÍCH THÍCH HỌC SINH CÁ BIỆT VƯƠN LÊN TRONG HỌC TẬP
NGƯỜI VIẾT	: PHẠM THỊ THUỲ LINH
GIÁO VIÊN	: TRƯỜNG TH TÔ VĨNH DIỆM
NĂM HỌC 2006 – 2007 
LÀM THẾ NÀO ĐỂ KÍCH THÍCH HỌC SINH
CÁ BIỆT VƯƠN LÊN TRONG HỌC TẬP
I/ ĐẶT VẤN ĐỀ:
Là một người thầy, ai cũng mong ước đem lại những hạnh phúc đơn sơ cho các em, những nụ cười và đôi mắt sáng sung sướng khi trẻ nhận được những thành tích trong học tập và mong ước sự nghiệp giáo dục của mình một ngày một tốt đẹp hơn. Tuy nhiên có nhiều em trưởng thành một cách khó khăn không như các em bình thường khác mà bề ngoài khó nhận biết. Ở trường việc học tập có dấu hiệu như: tiếp thu bài chậm, nghịch phá, xao lãng việc học, không biết nghe lời. Còn ở nhà, các em quậy phá quá mức không thèm nghe lời dạy bảo, lơ đễnh Những biểu đó, chúng ta gọi là những em “học sinh cá biệt”. Giáo dục “học sinh cá biệt” quả là một vấn đề chúng ta đặt ra câu hỏi “phải làm sao, dùng phương pháp nào đây?” Việc giáo dục học sinh cá biệt phải chăng là nhiệm vụ của giáo viên chủ nhiệm hay cần có sự kết hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội? Sau đây tôi sẽ trình bày một số kinh nghiệm nhỏ của mình trong việc giáo dục học sinh cá biệt với mong muốn các em sẽ trở thành những người con ngoan, trò giỏi. 
II/ NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP THỰC HIỆN:
Những biểu hiện bên ngoài của học sinh cá biệt:
Nói đến học sinh cá biệt bao gồm:
Cá biệt về học tập:
+ Học sinh có những biểu hiện lười biếng ở tất cả các môn học, hoặc chỉ có một môn nào đó văn hoặc toán
+ Học sinh thường lơ đãng trong giờ học, không chịu nghe giảng, về nhà không chịu làm bài, học bài từ đó học kém, sa sút.
Cá biệt về tính cách:
-Học sinh không chấp hành nội quy, không tham gia phong trào, đi học trễ. Có những biểu hiện khác lạ về cá tính như đến lớp đánh bạn, nghịch ngợm, phá phách hơn người.
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng cá biệt của học sinh:
Do gia đình: Gia đình có ảnh hưởng rất lớn đến trẻ vì ngoài thời gian đi học hầu hết thời gian còn lại các em sống với gia đình.
Vì cuộc sống gia đình quá khó khăn, thiếu thốn kinh tế, bố mẹ mất việc làm. Từ đó trẻ phải lo toan cuộc sống bằng cách phụ bố mẹ làm một công việc gì đó để kiếm tiền, trẻ không có điều kiện để học tập sa sút dẫn đến trẻ chán nản lười học.
Do gia đình bất ổn như cha mẹ chia tay, trẻ phải ở với bố hoặc mẹ hoặc những người thân khác trong gia đình. Trẻ ít được quan tâm, giáo dục, mất đi chỗ dựa từ phía gia đình nên hư hỏng, sống bất cần, phó mặc cho cuộc sống muốn ra sao thì ra.
Do kinh tế gia đình khá giả, bố mẹ lo làm ăn kiếm tiền ít quan tâm đến việc giáo dục con cái mà chỉ bỏ tiền ra chiều theo nhu cầu không chính đáng của con cái. Chính vì quá nuông chiều con như vậy cha mẹ không rèn luyện cho con thói quen trong học tập, sinh hoạt tập thể. Điều đó đã vô tình tạo cho trẻ tính lười biếng thói ỷ lại vào bố mẹ, không chịu rèn luyện. Từ đó, trẻ có những thói hư tật xấu.
Môi trường học tập:
Lớp học có sỉ số quá đông cũng là một vấn đề ảnh hưởng đến việc học của trẻ. Theo tôi, nếu lớp học quá đông. Giáo viên không thể quan tâm sâu sắc đến từng em. Mà kinh nghiệp cho thấy trẻ nhỏ cần được quan tâm, chỉ dẫn của người lớn mà trường học đó là giáo viên chủ nhiệm. Nếu chúng ta không quan tâm đến trẻ thì trẻ rất dễ lơ là việc học của bản thân.
Lớp học có nhiều học sinh cá biệt cũng là môi trường không tốt đối với trẻ. Trẻ sẽ dễ bị sa ngã theo chúng bạn.
Đối với học sinh cá biệt thì chỗ ngồi cũng ảnh hưởng rất lớn đến trẻ, một học sinh cá biệt ngồi xa tầm quan sát của giáo viên. Giáo viên ít có điều kiện theo dõi những hành động quậy phá nói chuyện hoặc lơ đãng việc học của học sinh.
Mối quan hệ giữa giáo viên và học sinh: chẳng hạn như người thầy không tìm hiểu trẻ, có những thành kiến nghiêm khắc đối với trẻ hoặc các giảng dạy của thầy làm cho trẻ không thích học.
+ 	Mặc cảm tự tôn: Đứa trẻ tự tự thấy mình là hơn người, học giỏi không cần phải học hỏi ai.
+ 	Mặc cảm tự ti: Đứa trẻ cảm thấy mình bị hất hủi, bị tập thể ruồng bỏ.
Môi trường xã hội:
Đây cũng là yếu tố ảnh hưởng đến trẻ. Nếu trẻ sống trong môi trường xã hội tốt, có kỉ cương, trật tự thì trẻ sẽ trưởng thành tốt.
Ngày nay, tình trạng sách báo phim ảnh nhảm nhí tràn lan nó đã thu hút khá đông trẻ nhỏ, khiến các em nhỏ bỏ bê việc học tập, sinh hoạt nề nếp.
Tâm sinh lý:
+	Về mặt tâm lí: thông thường những trẻ cá biệt rất hiếu động, có anh hùng cá nhân, thích làm nổi, ưa bắc chước, a-dua.
+	Về mặt sinh lí học: một số trẻ cá biệt do bệnh, kém dinh dưỡng, cấu tạo cơ thể có tật, khiếm khuyết. 
Biện pháp thực hiện:
Giáo viên kết hợp chặt chẽ với gia đình học sinh. Thường xuyên thăm hỏi gia đình học sinh để tìm hiểu, trao đổi, nắm được hoàn cảnh giáo dục cũng như sự quan tâm của gia đình đối với trẻ. Từ những yếu tố đó chúng ta mới có thể lựa chọn hình thức giáo dục cho phù hợp.
Đặc biệt biện pháp đạt kết quả tối ưu nhất là tình thương của giáo viên đối với học sinh. Làm nghề giáo muốn thành công chúng ta phải thật yêu nghề yêu trẻ bởi vì có yêu, có thương thì chúng ta mới quan tâm, chăm sóc, mới tìm hiểu và khích lệ trẻ. Nhất là đối với các em học sinh không được quan tâm do hoàn cảnh gia đình khó khăn thì sự động viên khích lệ của giáo viên sẽ giúp trẻ không có những mặc cảm bị bỏ rơi, bị xa lánh.
Sự giúp đỡ của tập thể lớp cũng rất quan trọng. Chẳng hạn: khi trẻ học kém ta có thể giao cho tổ trưởng kiểm tra, giảng bài co em đó hiểu. Qua đó trẻ nhận thấy mình được mọi người quan tâm và bản thân phải có trách nhiệm với mọi người qua đó ta có thể khơi gợi tính làm chủ tập thể cho trẻ.
Điều quan trọng chúng ta nên xoá bỏ những mặc cảm của trẻ kể cả hai mặt:
+ 	Những em mặc cảm tự tôn: 
è Giáo viên cần phải làm cho trẻ nhận thấy khả năng đích thực của trẻ là gì? 
+ 	Những em mặc cảm tự ti:.
è Đối với trẻ có mặc cảm tự ti chúng ta cần động viên khen thưởng ngay trước tập thể lớp, khích lệ khi trẻ làm tốt một việc dù rất nhỏ, dần dần trẻ cảm thấy tự tin ở bản thân, qua những lời đánh giá khen thưởng của giáo viên. 
Ví dụ: Em Bùi Hữu Nghĩa là học sinh lớp 2/7. Nghĩa là một học sinh quậy phá, lười học và có một hoàn cảnh rất khó khăn. Đầu năm, chỉ mới một tháng đến lớp, Nghĩa đã gây biết bao chuyện phiền hà, hết chọc phá lại gây chuyện đánh nhau với bạn. Em cũng thường xuyên bỏ học, đến lớp thì chẳng chịu nghe giảng, chẳng chịu làm bài. Một hôm đến lớp, vở tập viết của Nghĩa toàn là nét chữ nguệch ngoạch, nghiêng ngả. Tôi có hỏi Nghĩa chỉ trả lời “bố viết”. Trong giờ học, Nghĩa chẳng chịu nghe giảng, mà chỉ lo tìm cách chọc ghẹo bạn. Có lần Nghĩa tìm ra trò nghịch phá rất tai quái. Hôm ấy cả lớp đang chú ý nghe tôi giảng bài, bỗng trong lớp có tiếng khóc thét lên. Tôi giật mình quay về phía tiếng khóc thì chẳng thấy Nghĩa đâu, tôi vội xuống bàn Nghĩa thì thấy em đang loay hoay dưới gầm bàn, tay cầm cây thước êke nhựa có đầu nhọn, nét mặt hả hê lắm. Hỏi ra tôi mới biết Nghĩa dùng đầu nhọn đâm vào chân bạn.
Tính tình Nghĩa rất nóng nảy, chơi với bạn Nghĩa hay thường bắt nạt bạn. Khi Nghĩa tức giậtn hay không vừa ý điều gì đó, thì tỏ ra rất ngỗ ngược, chửi lại bạn bằng những lời lẽ thô tục, làm các bạn xa lánh, không muốn chơi với Nghĩa.
Nghĩa còn rất bướng bỉnh, ăn nói thì cộc lốc có khi đến mức vô lễ. Mỗi lần Nghĩa có lỗi tôi có trách phạt Nghĩa cũng tỏ ra bình thường thản nhiên, đôi lúc còn tỏ vẻ thách thức chẳng có gì lộ vẻ sơ hãi cả.
Làm việc gì Nghĩa cũng tỏ ra chậm chạp, tập vở dơ và rách cả bìa, Nghĩa đọc rất chậm, chính vì thế khi viết chính tả bao giờ cũng bị điểm kém.
Thấy vậy tôi băn khoăn lắm, tôi tìm hiểu hoàn cảnh của Nghĩa để có biện pháp giúp đỡ. Qua tìm hiểu tôi biết gia đình Nghĩa rất khó khăn, mẹ suốt ngày cặm cụi với công việc làm móng chỉ đủ để nuôi ba anh em Nghĩa. Bố Nghĩa đạp xích lô, ngày nào về đến nhà cũng nồng nặc mùi rượu, say xỉn lè nhè, quậy phá, đánh vợ chửi con bằng những lời lẽ thô tục. Hôm nào nhậu về thấy vui thì ông lấy tập của Nghĩa ra ngồi viết hoặc làm toán dùm, hôm nào không thấy vui thì đánh đập, chửi mắng bắt Nghĩa nghỉ học, không cho đi học nữa vì ông quan niệm “học nhiều cũng vô ích” chính điều ấy vô tình làm Nghĩa chán nả, bỏ dỡ luôn cả việc học và cũng chính môi trường như thế đã tạo cho Nghĩa một tính cách ngỗ ngược, ít hoà đồng, lười học và chẳng biết sợ ai.
Sau khi tìm hiểu về hoàn cảnh tôi đã đưa ra biện pháp nhằm giúp Nghĩa tiến bộ.
Trước hết tôi đến gặp phụ huynh em Nghĩa, khuyên bố Nghĩa cố gắng tạo điều kiện tốt để Nghĩa đến trường. Tôi giải thích cho ông hiểu “Trong điều kiện xã hội hiện nay, việc học rất cần thiết, chỉ có đi học sau này Nghĩa mới tương lai vững bền nếu anh không muốn con mình nối nghiệp cha đạp xích lô”. Sự kiên trì nhẫn nại của tôi đã làm ông dần dần thay đổi. Thêm vào đó, biết gia đình em khó khăn tôi đã tạo mọi điều kiện tốt cho em học tập, tôi đã cố gắng hỗ trợ em về mặt vất chất cũng như tinh thần, hằng ngày tôi bỏ riêng một giờ để kèm riêng cho em, để giúp em khắc phục được những mặt còn yếu của em như rèn đọc, chính tả và làm toán. Chính sự quan tâm ân cần của tôi đã tạo cho Nghĩa một chỗ dựa vững chắc về tinh thần, Nghĩa cảm thấy mình còn có người yêu thương dìu dắt. Từ đó Nghĩa học chăm hơn. Để động viên em, tôi dùng các hình thức để khen thưởng động viên em. Những lúc em quậy phá đánh bạn, tôi không la mắng đánh đòn mà chỉ nhẹ nhàng khuyên bảo. Trong ứng xử tôi còn dạy em cách ăn nói, cách ứng xử với bạn bè và em đã có nhiều tiến bộ, nói năng lễ phép, biết vâng lời thầy cô hoà đồng với bạn trong lớp. Tôi tuyên dương em có những cố gắng, và động viên bằng những món quà nhỏ như: tập, bút Việc làm này, không những giúp Nghĩa mau tiến bộ mà còn tạo một phong trào thi đua học tập trong lớp. Cuối năm đó món quà em dành cho tôi là danh hiệu học sinh tiên tiến mà em đã đạt bằng tất cả sự cố gắng của em.
Đối với học sinh do môi trường học tập:
Cần tạo mọi điều kiện tốt để trẻ được học tập trong môi trường lành mạnh.
Khi nhận lớp, cần phải tìm hiểu kĩ hoàn cảnh gia đình cũng như tâm sinh lí của từng em để từ đó có cách tổ chức lớp học sao cho phù hợp. Cụ thể: Nếu giáo viên nắm được rằng lớp mình có những học sinh nào yếu kém hay nghịch phá để giáo viên quan tâm đến em đó hơn. Có thể là cho ngồi bàn đầu hay là ngồi gần những bạn học giỏi để được nhắc nhở thường xuyên.
Giáo viên cụng phải nhiệt tình, tận tâm với công việc của mình. Phải đi sâu đi sát, quan tâm đến các em, để từ đó có cách giảng dạy sao cho phù hợp với nhận thức của mỗi học sinh.
Ví dụ: Năm học 2005 – 2006 với sĩ số là 44 học sinh quá đông điề ... ôi luôn động viên em cố gắng học tập, chú ý nghe giảng, điều gì không hiểu cứ mạnh dạn hỏi để tôi giảng lại. Lúc đầu việc uốn nắn Gia cũng khó khăn lắm và ý thức sửa đổi của em chưa cao. Nhưng cứ nhiều lần khuyên bảo sửa chữa với những lời nói dịu dàng của tôi đã giúp em cảm nhận được tình cảm của tôi đối với em và em đã dần thay đổi.
Trong các tiết học Gia chú ý nghe giảng bài hơn. Em mạnh dạn và tích cực xây dựng phát biểu bài. Mỗi khi Gia trả lời đúng tôi khen gợi và tuyên dương em trước lớp.
Ngoài những việc làm trên lớp tôi kết hợp với gia đình em rất chặt chẽ. Những công việc tôi giao về nhà gia đình phải kiểm tra đôn đốc em giúp em hoàn thành tốt. Nhờ sự quan tâm của tôi và các bạn trong lớp Gia đã tiến bộ rõ rệt và không còn lo ra nữa.
Đối với học sinh do môi trường xã hội:
Liên hệ nhắc nhở các phụ huynh cần quan tâm nhắc nhở đến việc đọc sách và xem phim video của con cái. Cần phải được kiểm tra có nội dung phù hợp và có ích cho trẻ lứa tuổi thiếu niên nhi đồng.
Ví dụ: Võ Thành Trung là học sinh lớp 3/5. Đến lớp nghịch ngợm phá phách không ai bằng lại thêm cái tính ương ngạnh. Trong đám bạn học Trung luôn tỏ ra là một bậc “đàn anh” bởi Trung cũng hơn những đứa bạn cùng lớp một tuổi. Trung bướng bỉnh lắm, thường bắt những đứa bạn cùng lớp gọi mình bằng “anh” nếu không Trung nghỉ chơi, khi có bạn nào lỡ gây lỗi với Trung thì Trung đánh cho một trận đáng đời. Trong học tập Trung cũng tỏ ra rất chăm học, rất tích cực phát biểu xây dựng bài, em hay đưa ra những câu hỏi rất hay nhưng em có tính hấp tấp, cụ thể cùng một vấn đề Trung có khả năng tiếp thu rất tốt, nhưng khi ứng dụng để giải quyết bài tập thì Trung lại rất thường làm sai bởi em chẳng chịu đọc kỹ đề.
Trung rất thích được cô giao nhiệm vụ và rất muốn các bạn trong lớp thấy mình có uy tín và rất thích được cô giáo khen. Qua tìm hiểu tôi được biết về mặt tâm sinh lý Trung phát triển bình thường ngay từ bé. Gia đình Trung thuộc gia đình khá giả, cha mẹ chỉ lo kiếm tiền ít quan tâm đến việc giáo dục con cái. Trung là con một nên được bố mẹ thương yêu, nhưng không vì thế mà ba mẹ chiều Trung quá đáng, cha mẹ Trung rất nghiêm khắc đến việc học của con. Trung rất biết sợ và cũng có ý thức sửa đổi. Nhưng do tính cách hiếu động và ý thức sửa đổi không lâu, mặt khác em thường xem phim ảnh nhiều nên ảnh hưởng rất nhiều đến tính cách thích là “người hùng”. Khu phố Trung ở là một nơi phúc tạp với nhiều thành phần tệ nạn xã hội như cờ bạc, hút chích đó cũng chính là nguyên nhân hình thành tính cách của em.
Tôi đã gặp phụ huynh và khuyên phụ huynh em nên quan tâm đến con cái hơn và nên kiểm tra nội dung phim ảnh, sách báo trứơc khi cho con xem hoặc đọc. Hằng ngày tôi thông báo và liên hệ với phụ huynh qua một quản vở để phụ huynh nắm tình hình học tập của Trung.
Với tính nóng nảy của Trung tôi không dùng hình thức roi vọt vì nó sẽ làm phản tác dụng giáo dụ. Tôi tìm cách khuyên bảo nhẹ nhàng, dùng lời lẽ ân cần dịu dàng để giải thích cho Trung hiểu tác hại của sự nóng nảy.
Với cá tính thích làm “thủ lĩnh” và thích được giao nhiệm vụ, tôi giao cho Trung chức vụ “lớp phó kỷ luật”. Có nhiệm vụ nhắc nhở đôn đốc các bạn trong lớp. Muốn thế bản thân em thật nghiêm túc làm gương cho các bạn noi theo.
Song song tôi cũng giải thích để Trung hiểu đánh bạn là việc làm không đúng, nếu có vấn đề gì thì phải thưa với tôi để tôi giải quyết chứ không nên đánh bạn, sẽ làm bạn xa lánh không nghe theo hướng dẫn của mình và như thế em sẽ khó quản lý lớp tốt được.
Trung rất thích được khen, do đó tôi luôn dùng hình thức khen ngợi, động viên khi Trung làm tốt công việc được giao. Bên cạnh đó tôi cũng phải tỏ ra nghiêm khắc, phê bình ngay khi Trung chưa tốt.
Với tình thương chân thành của tôi đã dần dần cảm hoá Trung, em càng ngày càng tiến bộ hơn trong học tập và công tác của mình. Trung luôn thực hiện tốt và tỏ ra là một người có trách nhiệm nên được các bạn trong lớp yêu thương và rất khâm phục.
Đối với học sinh do tâm sinh lí:
Đối với những trẻ hiếu động cần quan tâm, động viên, nhắc nhở, uốn nắn các em thường xuyên. Những trẻ này trong công việc thường rất năng động nhưng hấp tấp do đó ta nên giao công việc cho trẻ song đó phải kiểm nhắc nhở thường xuyên.
Đối với những trẻ này các em thường có mặc cảm, thường xa cách, ít hoà đồng với mọi người xung quanh. Vì vậy chúng ta cần quan tâm đến trẻ nhiều hơn. Trò chuyện với chúng chân tình cởi mở, tạo điều kiện cho chúng hoà đồng vào tập thể lớp để chúng thấy được sự quan tâm của mọi người và từ đó xoá đi những mặc cảm của bản thân.
Ví dụ: Em Lê Thị Thỳ Linh là học sinh lớp 2/7. Linh là một học sinh yếu trong lớp, vào lớp em thích thì chép bài không thích thì ngồi chơi, bài vở thích thì làm không thích thì để giấy trắng cả bài thi. Qua tìm hiểu tôi biết em sinh vào cuối năm và bị suy dinh dưỡng từ nhỏ nên em bé hơn các bạn trong lớp. Các bạn trong lớp hay trêu chọc em vì em nhỏ con và mỗi khi bị điểm kém. Tôi dùng biện pháp để khắc phục tình trạng trên như sau: 
Trong giờ sinh hoạt lớp tôi thường nhắc nhở cả lớp: bạn bè phải yêu thương giúp đỡ nhau không được trêu chọc, phải giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Tôi phân công em Hằng học sinh gần nhà em lên ngồi gần Linh có trách nhiệm kiểm tra và nhắc nhở làm bài. Khi làm bài, tôi thường gọi Linh lên bảng và hướng dẫn Linh hoàn thành bài làm. Tôi khen em và cho các bạn vỗ tay động viên. Tôi làm như vậy để khuyến khích em, để em nhận thấy tôi quan tâm đến em. Lúc đầu em vẫn còn thái độ lầm lì nhưng càng về sau em đã hoà nhập với tập thể, có thái độ thân thiện với thầy cô và các bận học tập tự giác và có kết quả tốt hơn.
Như vậy, theo tôi biện pháp chung nhất đó là làm sao phải tìm ra cho được nguyên nhân chính, phải tìm hiểu xem trẻ cá biệt mặt gì? Nguyên nhân nào dẫn đến tình trạng đó? Thường xuyên trao đổi trò chuyện với học sinh nhằm tạo ra tình cảm gắn bó giữa thầy và trò. Khi đã rõ mọi ngọn nguồn làm học sinh đó chậm tiến thì gặp các tình huống dù tiêu cực, dù phức tạp đến đâu. Nhưng với cách xử lý khéo léo, với tấm lòng thiện cảm, tôn trọng, tin yêu học sinh thì công việc giáo dục của chúng ta dần dần sẽ hiệu quả.
Việc giáo dục cũng chỉ thành công khi giáo viên chúng ta biết tìm cách tạo ra xung quanh học sinh đó một môi trường sư phạm tốt đẹp, tạo điều kiện cho học sinh đó được học tập rèn luyện trong một tập thể lớp tiến bộ, có tinh thần tự quản cao, có ý thức giúp nhau cùng tiến bộ với sự cảm thông và tin yêu chân thành. Song song đó giữa giáo viên chủ nhiệm và gia đình phải tạo ra được mối quan hệ sư phạm thống nhất cùng góp phần giáo dục học sinh cá biệt đó.
III/ HIỆU QUẢ CỦA GIẢI PHÁP:
Năm học
Tên HS cá biệt
Đầu năm
Cuối năm
2002 – 2003
Bùi Tấn Tài
(Lớp 3/5)
Hay chọc ghẹo đánh nhau với học sinh lớp trên, lấy đồ của các bạn trong lớp học yếu.
Ngoan lễ phép với thầy cô, yêu thương giúp đỡ bạn bè trong lớp. Học sinh tiên tiến
Võ Thành Trung
(Lớp 3/5)
Nghịch ngợm phá phách, ương ngạnh tỏ vẻ đàn anh hay đánh bạn.
Ngoan là một lớp phó kỷ luật có trách nhiệm và được các bạn trong lớp yêu thương và khâm phục.
Lưu Đức Phát
(Lớp 3/5)
Hay lo ra trong giờ học
Chú ý nghe giảng và phát biểu xây dựng bài.
2003 – 2004
Bùi Hữu Nghĩa
(HS phổ cập)
(Lớp 2/7)
Rất quậy phá, lười học hay chọc phá, gây chuyện đánh nhau với bạn thường xuyên nghỉ học nói năng thô lỗ, ngỗ ngược, các bạn xa lánh.
Nói năng lễ phép, vâng lời thầy co hoà đồng với các bạn trong lớp. Chăm học hơn có tiến bộ trong học tập. Học sinh tiên tiến và một người con ngoan trong gia đình.
Lê Thị Thuỳ Linh
(Lớp 2/7)
Học lực yếu, lười học không giao tiếp với các bạn.
Hoà nhập với tập thể, thân thiện với thầy cô bạn bè học tập tự giác. Học sinh tiên tiến.
2005 – 2006 
Bùi Đình Bảo Gia
(Lớp 1/5)
Hay quậy phá, chọc ghẹo bạn, không tập trung trong giờ học, lo ra, gây mất trật tự trong giờ học
Chú ý nghe giảng không lo ra tích cực phát biểu xây dựng bài.
Kết quả:
Năm học
Sỉ số
Lên lớp thẳng
Học sinh giỏi
Học sinh
tiên tiến
2002 – 2003
45
45
18 (40%)
22 (48%)
2003 – 2004
42
42
19 (45,2%)
15 (35%)
2004 – 2005
36
36
24 (66,7%)
10 (27%)
2005 - 2006
42
42
40 (95,2%)
 2 (4,8%)
IV/ MẶT TÍCH CỰC VÀ HẠN CHẾ CỦA SKKN:
Mặt tích cực:
Giúp các em rèn luyện thói quen tốt trong học tập tốt. Những em hay nghịch phá chăm học hơn. Các em nhút nhát thường xuyên phát biểu xây dựng bài.
Phát huy tính tích cực của học sinh.
Có sự liên kết phối hợp chặt chẽ giúp nhà trường và gia đình.
Hạn chế:
Đòi hỏi giáo viên phải có “tâm” với nghề hết lòng với trẻ, kiên trì nhẫn nại.
Phải có sự phối hợp tốt giữa gia đình và nhà trường mới có hiệu quả cao.
Bản thân giáo viên phải có sự đầu tư nhiều trong công tác chủ nhiệm và giảng dạy.
V/ BÀI HỌC KINH NGHIỆM RÚT RA:
Việc giáo dục “học sinh cá biệt” quả là một vấn đề phức tạp, nó đã và đang là điều trăn trở không phải của riêng tôi nhưng của nhiều giáo viên chủ nhiệm hiện nay. Để giáo dục tốt học sinh cá biệt rõ ràng đòi hỏi ở giáo viên phải có năng lực sư phạm.
Năng lực sư phạm không chỉ đơn thuần là giỏi về giảng dạy, tổ chức lớp học có kỉ nề nếp mà còn phải giỏi làm sao xây dựng được tình nghĩa gắn bó giữa thầy và trò. Ông cha ta từ xưa cũng thường bảo “dạy dỗ” để nói đến việc giáo dục một con người “dạy” là cung cấp nội dung, “dỗ” là làm cách đối xử với con người, làm sao gây thiện cảm, tạo ra hứng thú, phát huy tiềm năng của học sinh hơn là áp đặt ý muốn chủ quan của thầy. Chính vì thế muốn dạy trẻ trước hết phải hiểu trẻ, yêu thương và tôn trọng trẻ. Người giáo viên tiểu học phải là người giỏi về tâm lý trẻ thơ. Từ đó mới khám phá ra tâm hồn của trẻ để giáo dục trẻ cho tốt. Khi đã tìm ra phương pháp giáo dục phù hợp, với trách nhiệm lương tâm cao cả thì mọi giáo viên chủ nhiệm chúng ta đều có thể tìm ra con đường đi tới niềm vui trong giáo dục học sinh cá biệt. Đúng như MAKARENCÔ nhà giáo dục Nga đã khẳng định “không sợ học sinh hỏng mà chỉ sợ phương pháp giảng hỏng”¸, không có học sinh nào muốn mình hư, em nào cũng muốn mình là học sinh ngoan học giỏi và được bố mẹ thầy cô khen ngợi. Bác Hồ của chúng ta nói: “bản chất con người là tốt đẹp”. Là giáo viên chúng ta hãy đến với trẻ với tất cả tấm lòng, trái tim người thầy chắc chắn chúng ta cũng gặt hái được kết quả trong giáo dục.
VI/ PHẠM VI ÁP DỤNG:
Kinh nghiệm này có thể áp dụng cho các khối lớp trong trường tiểu học ở trong quận.
VI/ KẾT LUẬN:
Trên đây là 1 số khái niệm mà tôi đã thực hiện và đạt hiệu quả cao, mong là những kinh nghiệm này có thể giúp ích được cho đồng nghiệp và cũng mong được sự góp ý.
	Tân phú, ngày 19 tháng 03 năm 2007
	Người viết
	Phạm Thị Thùy Linh 

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn hs ca biet 2.doc