I.2. Mục đích nghiên cứu.
I.2.1. Thứ nhất là: Hoàn thiện hoặc nâng cao cho phép đối với phần lý thuyết của tiết học trước hoặc một số tiết học trước, thông qua một hệ thống bài tập (gồm các bài tập trong SGK, sách bài tập hoặc các bài tập tự chọn, tự sáng tạo của giáo viên tuỳ theo mục đích và chủ ý của mình) đã được sắp xếp hợp lý theo kế hoạch lên lớp.
I.2.2. Thứ hai là: Rèn luyện cho học sinh các kỹ năng, thuật toán hoặc nguyên tắc giải toán, dựa trên cơ sở nội dung lý thuyết toán đã học và phù hợp với trình độ tiếp thu của đại đa số học sinh của một lớp học, thông qua một hệ thống các bài tập hoặc một chuyên đề về các bài tập đã được sắp xếp theo chủ ý của giáo viên. Đây thực chất là vấn đề vận dụng lý thuyết để giải các bài tập hoặc hệ thống các bài tập nhằm hình thành một số kỹ năng cần thiết cho học sinh được dùng nhiều trong thực tiễn đời sống và học tập.
I.2.3. Thứ ba là: Thông qua phương pháp và nội dung của tiết học (hệ thống các bài tập của tiết học), rèn luyện cho học sinh nề nếp làm việc có tính khoa học, học tập tích cực, chủ động và sáng tạo, phương pháp tư duy và các thao tác tư duy cần thiết.
Trên đây là ba yêu cầu chủ yếu của tiết luyện tập toán. Tuy nhiên, tuỳ theo yêu cầu cụ thể của từng tiết học và đặc điểm của các phần môn số học, đại số, hình học mà trong từng tiết luyện tập nổi lên các yêu cầu trọng tâm.
Đối với phân môn Hình học, yêu cầu về rèn luyện phương pháp tư duy lại quan trọng hơn là cung cấp cho học sinh một lời giải của một bài toán cụ thể.
Nói tóm lại, tuỳ theo yêu cầu của từng tiết học, mà ta đưa ra yêu cầu nào trọng tâm, yêu cầu nào là chủ yếu và mức độ cụ thể của từng yêu cầu.
Phòng giáo dục và đào tạo huyện hoành bồ Trường THCS trới --------***-------- Tên sáng kiến kinh nghiệm: “ Biện pháp để nâng cao hiệu quả giờ dạy tiết luyện tập hình học 6 ” Giáo viên thực hiện: Nguyễn Thị ánh nguyệt Năm học 2007 – 2008 I/ phần mở đầu. I.1. Lí do chọn đề tài. Tiết luyện tập toán ở cấp THCS có một vị trí hết sức quan trọng không chỉ ở chỗ nó chiếm tỷ lệ cao về số tiết học mà điều chủ yếu là: Nếu như tiết học lý thuyết cung cấp cho học sinh những tiết học cơ bản ban đầu thì tiết luyện tập có tác dụng hoàn thiện các kiến thức cơ bản đó, nâng cao lý thuyết trong chừng mực có thể, làm cho học sinh nhớ và khắc sâu hơn vấn đề lý thuyết đã học. Đặc biệt hơn tiết luyện tập, học sinh có điều kiện thực hành, vận dụng các kiến thức đã học vào việc giải quyết các bài toán thực tế, các bài toán có tác dụng rèn luyện kỹ năng tính toán, rèn luyện các thao tác tư duy để phát triển năng lực sáng tạo sau này. Tiết luyện tập không phải chỉ là giải các bài tập toán đã học, cho học sinh làm ở nhà hay sẽ cho học sinh làm ở trên lớp. Đành rằng, trong tiết luyện tập Toán chắc chắn sẽ có phần giải các bài tập. Ngay cái tên “Tiết luyện tập” đã chỉ cho ta biết rằng “Thầy phải luyện cái gì” và “Trò phải tập cái gì?”. Thầy luyện, trò tập làm đó là nội dung chủ yếu của tiết luyện tập. Tiết luyện tập có tính mục đích rõ ràng hơn tiết bài tập. Trong tiết luyện tập, phần nào đó, thầy giáo được “tự do” hơn trong việc lựa chọn nội dung dạy học so với tiết học lý thuyết, miễn sao đạt được mục đích yêu cầu đề ra. Tuy nhiên trong thực tế giảng dạy nhiều năm nay tôi thấy thường thì học sinh không hứng thú học tiết luyện tập bằng tiết học lý thuyết, còn giáo viên thì không hay chọn tiết luyện tập để thao giảng và cũng có nhiều giáo viên suy nghĩ rằng dạy tiết luyện tập thường khó thành công hơn tiết dạy lý thuyết. Chính vì những lý do đó thiết nghĩ rằng tiết luyện tập chiếm số lượng lớn như vậy mà giáo viên chưa thực sự hứng thú dạy và học sinh cũng chưa thực sự thích học sẽ dẫn đến tiết học nhàm chán, nó sẽ làm ảnh hưởng đến việc tiếp thu kiến thức mới của học sinh. Xuất phát từ điều khẳng định: “Mỗi nội dung dạy học đều liên quan mật thiết với những hoạt động nhất định. Quá trình dạy học là quá trình điều khiển hoạt động và giao lưu của học sinh nhằm thực hiện mục đích dạy học ”. Do đó tôi đã lựa chọn nội dung: Biện pháp để nâng cao hiệu quả trong giờ luyện tập hình học 6 để nghiên cứu và áp dụng vì năm học này tôi dạy lớp 6. Nếu sáng kiến của tôi thực hiện đạt kết quả tốt, tôi sẽ phát triển và áp dụng cho các lớp kế tiếp. Đây cũng là một trong những vấn đề được rất nhiều giáo viên quan tâm đến và cũng là một giờ dạy khó cần đầu tư nhiều thời gian và trí tuệ. I.2. Mục đích nghiên cứu. I.2.1. Thứ nhất là: Hoàn thiện hoặc nâng cao cho phép đối với phần lý thuyết của tiết học trước hoặc một số tiết học trước, thông qua một hệ thống bài tập (gồm các bài tập trong SGK, sách bài tập hoặc các bài tập tự chọn, tự sáng tạo của giáo viên tuỳ theo mục đích và chủ ý của mình) đã được sắp xếp hợp lý theo kế hoạch lên lớp. I.2.2. Thứ hai là: Rèn luyện cho học sinh các kỹ năng, thuật toán hoặc nguyên tắc giải toán, dựa trên cơ sở nội dung lý thuyết toán đã học và phù hợp với trình độ tiếp thu của đại đa số học sinh của một lớp học, thông qua một hệ thống các bài tập hoặc một chuyên đề về các bài tập đã được sắp xếp theo chủ ý của giáo viên. Đây thực chất là vấn đề vận dụng lý thuyết để giải các bài tập hoặc hệ thống các bài tập nhằm hình thành một số kỹ năng cần thiết cho học sinh được dùng nhiều trong thực tiễn đời sống và học tập. I.2.3. Thứ ba là: Thông qua phương pháp và nội dung của tiết học (hệ thống các bài tập của tiết học), rèn luyện cho học sinh nề nếp làm việc có tính khoa học, học tập tích cực, chủ động và sáng tạo, phương pháp tư duy và các thao tác tư duy cần thiết. Trên đây là ba yêu cầu chủ yếu của tiết luyện tập toán. Tuy nhiên, tuỳ theo yêu cầu cụ thể của từng tiết học và đặc điểm của các phần môn số học, đại số, hình học mà trong từng tiết luyện tập nổi lên các yêu cầu trọng tâm. Đối với phân môn Hình học, yêu cầu về rèn luyện phương pháp tư duy lại quan trọng hơn là cung cấp cho học sinh một lời giải của một bài toán cụ thể. Nói tóm lại, tuỳ theo yêu cầu của từng tiết học, mà ta đưa ra yêu cầu nào trọng tâm, yêu cầu nào là chủ yếu và mức độ cụ thể của từng yêu cầu. I.3. Thời gian và địa điểm. - Thời gian: Thực hiện trong một năm đối với lớp 6, còn nếu thực hiện tốt có thể nghiên cứu và áp dụng đối với các khối lớp 7, 8, 9 tiếp theo. - Địa điểm: Tại trường THCS Trới I.4. Đóng góp mới về mặt lý luân, về mặt thực tiễn. I.4.1. Về mặt lí luận. Để nâng cao hiệu quả của giờ luyện tập thì dù với biện pháp nào cũng phải thông qua các hoạt động của học sinh. Trước hết phải thấy được quá trình dạy học là quá trình triển khai hoạt động và giao lưu của học sinh nhằm thực hiện những mục đích dạy học. Học tập là một quá trình xử lí thông tin, quá trình này có các chức năng đưa thông tin vào, ghi nhớ thông tin và điều phối. Học sinh thực hiện những chức năng này bằng những hoạt động của mình. Hoạt động thúc đẩy sự phát triển là hoạt động mà chủ thể thực hiện một cách tự giác và tích cực. Vì vậy cần cố gắng gây động cơ để học sinh có ý thức thực hiện hoạt động. I.4.2. Về mặt thực tiễn: I.4.2.1.Thực tế chúng ta thường thấy trong các giờ luyện tập là: Giáo viên yêu cầu học sinh liệt kê và nhắc lại nội dung các kiến thức đã học trong giờ luyện tập( Theo thứ tự các mục trong bài). Giáo viên cho học sinh ghi lại các nội dung cơ bản của các kiến thức đó. Sau đó giáo viên hướng dẫn học sinh giải một số bài luyện tập ( trong sách giáo khoa). Dẫn đến tình trạng cả học sinh và giáo viên đều không thích học và dạy giờ luyện tập. Cũng từ thực trạng đó dẫn đến khả năng nhớ – tổng hợp kiến thức, tìm ra mối quan hệ giữa các đơn vị kiến thức để vận dụng giải các bài tập tổng hợp không tốt. I.4.2.2. Nguyên nhân. I.4.2.2.1. Về phía giáo viên. - Thiên về cung cấp bài dạy cho học sinh một cách thụ động: Thường chỉ nhắc lại những kiến thức đã học rồi cho làm một số bài tập (Do giáo viên chỉ ra) - Thường chỉ chú ý số lượng hơn chất lượng giờ luyện tập: Thường bằng lòng và kết thúc giờ luyện tập bằng việc: Đã điểm lại được hết các nội dung kiến thức đã học trong giờ luyện tập và đã hướng dẫn giải được một số bài tập. I.4.2.2.2. Về phía học sinh. - Quen với việc tiếp thu kiến thức từ thầy một cách thụ động. - Với đặc điểm tâm lí lứa tuổi ( 11 – 12 tuổi): Ham chơi, nhu cầu “tự nghiên cứu” để nâng cao kiến thức rất ít nên nếu không được sự quan tâm, dìu dắt của thầy thì việc chỉ biết chép lại và học những gì thầy cho ghi là điều dễ xảy ra. II/ Phần nội dung. II.1. Chương 1: Tổng quan. Hiện nay và trong tương lai, dưới tác động của sự bùng nổ về khoa học và công nghệ. Cùng nhiều yếu tố khác. Nhà trường không thể dạy cho học sinh tất cả, bất kỳ trường nào cũng chỉ cung cấp cho con người khối lượng kiến thức có hạn. Điều quan trọng mà nhà trường cần trang bị cho học sinh đó là tiềm lực, là phương pháp chiếm lĩnh tri thức. Để tích cực hoá hoạt động học tập của học sinh, khơi dậy và phát triển năng lực tự học nhằm hình thành cho học sinh tư duy tích cực, độc lập sáng tạo, gây hứng thú học tập thì việc sử dụng phương pháp, cách thức, cách tổ chức dạy học một tiết luyện tập hình học toán THCS là cần thiết. II.2. Chương 2: Nội dung vấn đề nghiên cứu: Để nắm bắt một cách chính xác tình hình thực tế của học sinh đồng thời phân loại được học sinh để có phương pháp giảng dạy phù hợp, tôi đã có bài kiểm tra để khảo sát tình hình học sinh và thu được kết quả như sau: Lớp Sĩ số Giỏi Khá T.Bình Yếu Kém 6A1 45 14 13 14 4 0 6A4 35 0 1 11 18 3 Qua bài khảo sát tôi thấy: + Khả năng trình bày bài của các em rất kém, nhất là các em ở lớp 6A4 + Nhiều em đọc bài mà không hiểu nội dung bài toán cho biết gì và yêu cầu gì + Nhìn hình vẽ cũng chưa đọc được hình ( Tức là chưa biết hình vẽ đó thể hiện nội dung gì) + Vẽ hình chưa chính xác, chưa đẹp + Vận dụng lý thuyết vào làm các bài tập chưa rõ ràng, chưa logic. Xuất phát từ việc khảo sát đó tôi thấy một mặt hướng dẫn cho các em tìm ra kiến thức mới là rất quan trọng, mặt khác để nhớ, khắc sâu và vận dụng để giải các bài tập lại càng quan trọng hơn, vậy việc đó được thực hiện ở đâu? Đó là thực hiên phần lớn ở tiết luyện tập. II.2.1. Biện pháp để nâng cao hiệu quả giờ dạy luyện tập hình học 6. Theo tôi để nâng cao hiệu quả của một giờ dạy luyện tập thì phải cần thực hiện những công việc sau: II.2.1.1.Chuẩn bị cho giờ dạy luyện tập. Để có một giờ dạy luyện tập tốt, công việc đầu tiên chúng ta phải làm đó là khâu chuẩn bị ở cả thầy và trò, nếu được chuẩn bị kĩ càng bao nhiêu thì giờ dạy càng thành công bấy nhiêu. II.2.1.1.1.Việc chuẩn bị của giáo viên. * Về nội dung: - Dựa vào tài liệu sách giáo khoa và các tài liệu tham khảo, giáo viên cần xây dựng một bảng các nội dung cần thực hiện trong giờ luyện tập. Các nội dung của giờ luyện tập được thống kê đầy đủ, chính xác, khoa học và có logic với nhau để tiện cho việc thực hiện trên lớp. - Có xác định kiến thức trọng tâm của giờ luyện tập và các kiến thức có liên quan đến kiến thức cũ, kiến thức chuẩn bị cho hình thành khái niệm mới. * Về phương pháp: - Công việc chuẩn bị cho giờ luyện tập của giáo viên phải được tiến hành ngay sau mỗi bài học. Sau mỗi bài học, đến phần củng cố giáo viên phải có ý thức chốt lại những kiến thức cơ bản của bài và nhấn mạnh các kiến thức dó có liên quan đến kiến thức nào của bài trước và nó được nhắc lại ở mục nào của bài sau. Có nghĩa là giáo viên phải hướng dấn học sinh xây dựng kiến thức mới trên cơ sở kiến thức cũ theo phương pháp “ quy lạ về quen”. Từ đó để học sinh thấy được mối liên hệ giữa các kiến thức trong giờ luyện tập. - Sau khi học xong bài của giờ luỵện tập, giáo viên tổng hợp lại thành một hệ thống câu hỏi và bài tập để cho học sinh chuẩn bị ở nhà dưới nhiều hình thức khác nhau như: + Trả lời câu hỏi + Điền vào chỗ trống + Trắc nghiệm Ví dụ 1: Dạy học bài Điểm thuộc đường thẳng – Toán 6 tập 1. Điền vào chỗ trống trong bảng dưới đây: Yêu cầu học sinh phải điền vào ô trống cả hình vẽ và kí hiệu. Để cho học sinh ghi nhớ được kiến thức lâu hơn. Đây cũng là một hình thức phát triển tư duy cho học sinh. Cách viết thông thường Hình vẽ Kí hiệu Điểm M M Đường thẳng a M a Điểm N không thuộc đường thẳng a Phần bài tập: - Giáo viên cần chọn những bài có nội dung tổng hợp nhiều kiến thức liên quan đến phần luyện tập hình học để qua đó một l ... c sống để học sinh dễ dàng suy luận và tìm được hướng giải nhanh hơn, học sinh tích cực làm hơn, hoặc tôi cũng có thể đưa ra bài tập là sự tranh luận của hai bạn, để cho học sinh suy nghĩ và trả lời xem trong cuộc tranh luận thì ai sẽ là người đúng, vì sao? + Ví dụ1: Tôi có thể thay thế bài tập 17/109.Sgk bằng nội dung bài toán sau: Nếu có bốn đội bóng thi đấu với nhau sao cho đội nào cũng thi đấu với các đội còn lại thì có bao nhiêu trận đấu? + Ví dụ 2: Với bài đường tròn : Có ba nhà A, B, C chung nhau đào một cái giếng nước. Em hãy chọn vị trí để đào giếng sao cho khoảng cách từ ba nhà đến giếng đều bằng nhau? . . . Trên đây chỉ là một số ví dụ mà tôi cũng đã áp dụng trong tiết luyện tập tôi thấy học sinh thích học, tiết luyện tập đã dần dần trở thành một tiết học hấp dẫn đối với học sinh. Khi người thầy giáo định hướng được đúng mục đích của tiết học thầy sẽ thấy tiết học sẽ có hứng thú hơn tạo được niềm say mê trong sự nghiệp giáo dục của mình , nhưng muốn thực hiện tốt tiết luyện tập cần phải đầu tư khá nhiều công sức vào vấn đề chọn bài cho phù hợp với yêu cầu của tiết luyện tập. Từ đó xây dựng kế hoạch và thời gian thực hiện trên lớp theo từng nội dung cụ thể. II.1.2.5. Ví dụ về một tiết dạy cụ thể Ngày soạn: Ngày dạy: Tiết: 22 luyện tập 1. Mục tiêu 1.1. Về kiến thức: Củng cố tính chất mở rộng góc, vẽ góc biết số đo, tia phân giác của góc 1.2. Về kỹ năng: Rèn luyện kĩ năng tính toán và vẽ hình. Tia phân giác của góc. 1.3. Về thái độ: Học sinh làm việc tích cực. 2. Chuẩn bị của giáo viên và học sinh: 1.1. GV: Thước thẳng, thước đo góc, bảng phụ có ghi nội dung kiểm tra bài cũ. 1.2. HS: Thước thẳng, bảng nhóm, thước đo góc 3. Phương pháp: - Phương pháp luyện tập , vấn đáp, nêu vấn đề, trực quan 4. Tiến trình giờ dạy 4.1. ổn định(1’): Sĩ số 6A1: 6A4: 4.2 Kiểm tra (7’ ) HS1: Điền vào chỗ trống () cho đúng: Tia nằm giữa hai tia Ox và Oz Cho hai góc mOn và m’On’ + = 900 góc mOn và m’On’ là .. + góc mOn và m’On’ là hai góc bù nhau. 3. Tia là tia phân giác của góc xOy tia Oz ..hai tia Ox,Oy và HS2: Chọn câu trả lời đúng trong các câu sau: Khi nào thì ? Khi tia Oy nằm giữa hai tia còn lại ( Đ ) Khi tia Ox nằm giữa hai tia còn lại Khi tia Oz nằm giữa hai tia còn lại Khi góc xOz lớn hơn góc xOy. Tia Oz là tia phân giác của góc xOy khi: A. B. C. ( Đ ) D. và ( Đ ) 3) Hai góc kề bù là hai góc A. Có một cạnh chung và tổng số đo hai góc bằng 1800 B. Kề nhau và có số đo bằng 1800 C. Có tổng số đo bằng 1800 D. Có chung một tia và tổng số đo bằng 1800 * Vẽ phân giác của góc 400 4.3. Dạy học trên lớp Hoạt động của thầy Hoạt động của trò Nội dung ghi bảng * Bài 33/Sgk Cho HS đọc bài 33 SGK. - Yêu cầu HS vẽ hình. ? Tính góc ta phải biết số đo của những góc nào. * Lưu ý: - Quan hệ của hai góc kề bù. - Tính chất tia phân giác. * Khai thác bài toán: - Gọi Ot’ là tia phân giác của góc yOx’ thì góc tOt’ có số đo bằng bao nhiêu? vì sao? * Bài tập: Cho hai góc xOm và góc mOy kề bù. Oa, Ob lần lượt là tia phân giác của góc xOm và yOm. Tính góc aOb Yêu cầu HS phân tích tìm lời giải bài toán. ? Chứng minh góc nào bằng 900 ? Cần chứng minh tổng các góc nào bằng 1800. * Cho học sinh chứng minh ? Qua bài tập này có nhận xét gì về góc tạo bởi hai tia phân giác của hai góc kề bù BT*: Cho , kề nhau. Tính . Biết = 400 , = 1400. ? Nhận xét về hai góc xOy và xOz Bài 37/Sgk HD học sinh tìm lời giải. - Gợi ý học sinh về nhà làm Biết Hai góc xOy, yOx’ kề bù, = 1300 Ot là tia phân giác của Góc xOy Tìm Tính HS đọc đầu bài. 1 HS lên bảng vẽ hình. HS còn lại vẽ hình vào vở. C1: số đo của hoặc C2: số đo - Góc tOt’ có số đo bằng 900 vì Ot’ là tia phân giác của góc yOx’ nên =: 2 = 500:2 = 250 Vậy = 650 + 250 = 900 Biết Tìm HS tìm hiểu kỹ bài toán. = 900 () HS dựa vào sơ đồ phân tích để trình bày lời giải bài . - H: Góc tạo bởi hai tia phân giác của hai góc kề bù bằng 900 - H: Ghi biết và tìm -H: Đây là hai góc kề bù HS tìm hiểu bài 37: Vẽ hình. Tìm lời giải. Bài 33 ( 10’) Giải: * Ot là phân giác của => = * Do + = 1800 => = 500 * Do => 650 + 500 = => = 1150 Bài tập Vì Oa là phân giác của => Ob là phân giác của => * Vì Oa, Ob là hai tia nằm trên hai nửa mặt phẳng đối nhau bờ Om => Ta có: => => BT*: + = => 400 + 1400 = => = 1800 Bài 37 ( SGK) a, = 900 b, = 150 + 300 = 450 4.4.. Củng cố ( 3’) - Nắm được kiến thức về tia nằm giữa, tia phân giác, hai góc kề bù - Góc tạo bởi hai tia phân giác của hai góc kề bù bằng 900 - Lưu ý: Tính chất tia nằm giữa. Một số dạng bài tập. 4.5. Hướng dẫn học ở nhà (4’) BT*: Cho = , ( ), Oy Oz cùng nằm trên nửa mặt phẳng bờ là Ox. Tính . Biết Om là phân giác của . HD: Xét số đo của . Chuẩn bị giờ sau thực hành: Đo góc trên mặt đất - Nghiên cứu giác kế. 5. Rút kinh nghiệm giờ dạy ..................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................... II.3. Chương 3: Phương pháp nghiên cứu, kết quả nghiên cứu. II.3.1.Phương pháp nghiên cứu - Nghiên cứu lí luận liên quan. - Nghiên cứu thực tiễn. + Phỏng vấn. + Điều tra qua phiếu. - Phân tích tổng hợp. - Tổng kết kinh nghiệm. - Thực nghiệm giáo dục. II.3.2. Kết quả nghiên cứu: * Qua việc nghiên cứu và thực hiện sáng kiến kinh nghiệm đã nêu ở trên. Cuối năm tôi đã thu được kết quả như sau: Lớp Sĩ số Giỏi Khá T.Bình Yếu Kém 6A1 45 21 21 3 0 0 6A4 35 4 9 14 8 0 * Qua việc kiểm tra trên lớp và các bài kiểm tra sau khi thực hiện đề tài tôi thấy: + Trước tiên khi gặp một bài toán các em đã biết được bài toán cho biết gì?, tìm gì? từ đó có hướng giải các bài toán. + Thứ hai nhìn vào hình vẽ và dựa vào các ký hiệu trên hình các em biết được nội dung hình vẽ đề cập đến kiến thức nào, từ đó nắm chắc kiến thức hơn + Các em vẽ hình đẹp và tương đối chính xác. + Các em đã biết sử dụng các kiến thức có kiên quan để giải bài tập + Trình bày bài chặt chẽ và logic hơn + Các em học sinh giỏi tìm ra được nhiều cách giải cho một bài toán + Qua việc suy nghĩ cách giải và làm các bài toán các em đã nhớ và khắc sâu các kiến thức đã học. Và có những bài tập các em giải được các em cũng nêu ra được một kết luận tổng quát để vận dụng giải các bài tập tiếp theo. * Qua việc áp dụng sáng kiến vào việc dạy học điều quan trọng nhất là giáo viên đã làm được gì? học sinh đã được gì?. Đối với tôi biện pháp để nâng cao hiệu quả trọng giờ luyện tập, bước đầu tôi thấy thành công là học sinh đã thích học giờ luyện tập, học sinh có hứng thú học tập bộ môn, có ý thức tự giác học tập ở nhà, sôi nổi trong giờ học. Những học sinh học chậm hơn thì đã biết làm các bài tập cơ bản, những bài khó hơn thì cũng đã biết phân tích và nắm được các kiến thức có liên quan. Nói chung là hạn chế được tình trạng học sinh chép sách giải để chống đối mỗi khi có giờ luyện tập. điều đó càng thúc đẩy cho tôi tìm ra được các biện pháp mới trong mỗi tiết dạy. Theo tôi không nên dập khuôn một phương pháp, một hình thức cho mọi tiết luyện tập, mà mỗi tiết luyện tập giáo viên cần thay đổi hình thức, kết hợp các phương pháp, tạo sự mới mẻ cho mỗi tiết dạy mà vẫn đảm bảo được theo đúng yêu cầu đặc trưng của bộ môn . III/ Phần kết luận, kiến nghị. III.1 Phần kết luận + Theo tôi đừng biến tiết luyện tập thành tiết chữa bài tập. Tiết luyện tập phải là suy nghĩ cách giải bài toán. + Đừng đưa quá nhiều bài tập trong tiết luyện tập nên chọn một số lượng bài vừa đủ để có điều kiện khắc sâu các kiến thức được vận dụng và phát triển các năng lực tư duy cần thiết trong giải toán. + Nên sắp xếp các bài tập thành một chùm bài có liên quan đến nhau + Trong tiết luyện tập, có những bài được giải chi tiết, có những bài được giải vắn tắt + Hãy để cho học sinh có thời gian làm quen với bài toán cùng học sinh nghiên cứu tìm tòi lời giải bài toán và để cho học sinh được hưởng niềm vui khi tự mình tìm được chìa khoá của lời giải. III.2. Kiến nghị: - Trong tổ nên đi dự nhiều tiết luyện tập để cùng nhau thảo luận và tìm ra biện pháp chung nhất để nâng cao hiệu quả giờ dạy. - Phòng giáo dục cần mở các chuyên đề về giảng dạy tiết luyện tập để các đưa ra được phương pháp tốt nhất cho giờ dạy này, để cho giáo viên tự tin hơn khi đứng trước một giờ luyện tập, để có nhiều giờ dạy Toán giỏi không chỉ là tiết lý thuyết mà còn có cả giờ luyện tập, ôn tập. - Cuối cùng tôi xin cảm ơn sự quan tâm giúp đỡ của tổ chuyên môn, Ban giám hiệu nhà trường, Phòng giáo dục và các đồng chí giám khảo đã giúp đỡ tôi hoàn thành năm học. Tôi xin chân thành cảm ơn! IV/ Tài liệu tham khảo, phụ lục. IV.1. Tài liệu tham khảo. - Sách giáo khoa Toán 6 - Sách giáo viên Toán 6 - Sách bài tập toán 6 - Trắc nghiệm toán 6 - Luyện tập toán 6 - Phát triển toán 6 - Toán nâng cao 6 - Sổ tay toán học 6 - Tuyển chọn bài thi toán THCS - Chuyên đề bồi dưỡng học sinh giỏi toán THCS. - Tài liệu đổi mới phương pháp dạy học toán THCS. - ứng dụng CNTT vào giảng dạy toán. - Sử dụng các phần mềm vẽ hình Sketchpad, MathType. IV.2. Phụ lục I/ phần mở đầu I.1. Lí do chọn đề tài I.2. Mục đích nghiên cứu I.3. Thời gian và địa điểm I.4. Đóng góp mới về mặt lý luận, về mặt thực tiễn I.4.1. Về mặt lí luận I.4.2. Về mặt thực tiễn I.4.2.1.Thực tế thường thấy trong các giờ luyện tập I.4.2.2. Nguyên nhân I.4.2.2.1. Về phía giáo viên I.4.2.2.2. Về phía học sinh II/ Phần nội dung II.1. Chương 1: Tổng quan II.2. Chương 2: Nội dung vấn đề nghiên cứu II.2.1. Biện pháp để nâng cao hiệu quả giờ dạy luyện tập hình học 6 II.2.1.1.Chuẩn bị cho giờ dạy luyện tập II.2.1.1.1. Chuẩn bị của giáo viên II.2.1.1.2.Chuẩn bị của học sinh II.2.1.2. Xác định vị trí, mục đích, yêu cầu trọng tâm của giờ luyện tập II.2.1.3. Đồ dùng sử dụng cho giờ luyện tập II.1.2.4. Cách tiến hành luyện tập II.1.2.4.1. Hình thức 1 II.1.2.4.2. Hình thức 2 II.1.2.4.3. Hình thức 3 II.1.2.4.4. Hình thức 4 II.1.2.5. Ví dụ về một tiết dạy cụ thể II.3. Chương 3: Phương pháp nghiên cứu, kết quả nghiên cứu Trới, ngày 16 tháng 5 năm 2008 Người viết Nguyễn Thị Anh Nguyệt V/ Nhận xét của trường, hội đồng cấp PGD - ĐT. V.1. Nhận xét của trường THCS Trới V.2. Nhận xét của Hội đồng cấp Phòng GD & ĐT
Tài liệu đính kèm: